Bước tiến trong nghiên cứu di truyền giống: Năng suất đàn lợn Việt Nam đã tiệm cận thế giới - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 67.000 - 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 64.000 - 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 67.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 66.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 63.000 - 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 66.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Trà Vinh 63.000 đ/kg
    •  
  • Bước tiến trong nghiên cứu di truyền giống: Năng suất đàn lợn Việt Nam đã tiệm cận thế giới

    Những năm qua, lĩnh vực chăn nuôi lợn ở nước ta có sự tăng trưởng khá cả sản lượng và giá trị, trong đó có vai trò rất lớn từ thành tựu di truyền giống.

    Lãnh đạo Bộ NN-PTNT kiểm tra đàn lợn ỉ nhân bản vô tính bằng phương pháp soma tai tại Viện Chăn nuôi. Ảnh: VCN.

     

    Đóng góp cho sự gia tăng về năng suất và sản lượng của ngành chăn nuôi có nhiều yếu tố, trong đó di truyền giống giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Theo kết quả nghiên cứu đã được công bố, giống vật nuôi tốt có thể làm tăng năng suất đến 30%.

     

    Bài viết điểm lại một số tiến bộ trong lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng di truyền giống vật nuôi tại Việt Nam trong thời gian qua.

     

    Nghiên cứu chọn tạo dòng lợn tổng hợp

     

    Thập kỷ vừa qua có thể coi là thập kỷ của các nghiên cứu về chọn tạo dòng lợn cao sản. Xuất phát từ nguồn gen siêu sinh sản của dòng lợn VCN-MS15, các nhà khoa học đã kết hợp dòng lợn này với một số dòng lợn nhập nội như Landrace, Yorkshire từ Canada.

     

    Sau 5 năm nghiên cứu từ 2013 đến 2017, kết quả cho ra 2 dòng lợn tổng hợp TH12 và TH21, 1 dòng đực cuối ĐC1 thuộc nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu lợn Thụy Phương (Viện Chăn nuôi). Năng suất sinh sản của 2 dòng tổng hợp TH12 và TH21 đạt mức cao với số con sơ sinh sống đều ≥ 13 con; số con cai sữa đạt ≥ 12 con; tăng khối lượng trong giai đoạn hậu bị đạt ≥ 750 g/ngày.

     

    Đối với dòng đực cuối ĐC1, khả năng tăng khối lượng trong giai đoạn kiểm tra năng suất đạt ≥ 1000 g/ngày; tiêu tốn thức ăn đạt ≤ 2,4 kg/kg tăng khối lượng; đồng thời tỷ lệ nạc đạt ≥ 62%. Hiện tại các dòng trên đã được đưa ra sản xuất thử nghiệm trên quy mô trang trại.

     

    Ngoài việc sử dụng nguồn gen siêu sinh sản để tạo ra dòng tổng hợp phục vụ sản xuất trong nước, các nhà khoa học cũng sử dụng và phát huy nguồn gen quý của các dòng lợn ngoại thông qua các chương trình, dự án nhập giống từ Canada, Pháp, Mỹ và Đan Mạch, từ đó tạo ra các dòng riêng mang thương hiệu của Việt Nam. Điển hình là các dòng YVN, LVN và DVN.

     

    Đây là các dòng lợn đã được lựa chọn từ Pháp, Mỹ và Canada, qua nhiều năm nuôi giữ, tuyển chọn và đánh giá giá trị giống đã hoàn toàn thích nghi với điều kiện chăn nuôi tại Việt Nam, ngoài ra năng suất sinh sản và sinh trưởng của các dòng trên đều rất cao, với số con sơ sinh sống đạt ≥ 12 con/ổ; số con cai sữa đạt ≥ 11 con/ổ. Khả năng sinh trưởng của các dòng trên cũng rất cao khi khả năng sinh trưởng đạt ≥ 800 g/ngày, tiêu tốn thức ăn ≤ 2,5 kg/kg tăng khối lượng.

     

    Đặc biệt trong giai đoạn này, các nghiên cứu cũng được Hội đồng Khoa học cấp Bộ công nhận là tiến bộ kỹ thuật với các dòng LRVCN-MS15, YVCN-MS15, VCN15 và VCN16. Đây là các dòng chủ lực được tạo ra nhằm cung cấp nguyên liệu cho các nghiên cứu tạo dòng sinh sản nhằm phục vụ chăn nuôi ở quy mô trang trại và các tỉnh miền núi phía Bắc.

    Nhờ ứng dụng hiệu quả di truyền giống, năng suất và sản lượng đàn lợn tại Việt Nam hiện nay đã tiệm cận với các nước tiên tiến trên thế giới. Ảnh: Minh Phúc.

     

    Ứng dụng công nghệ phần mềm chọn giống

     

    Những năm vừa qua, các nhà khoa học Việt Nam đã ứng dụng thành công nhiều chương trình phần mềm và phương pháp chọn giống hiện đại như REML, BLUP, PIGBLUP, VCE, PEST, ASREML, WOMBAT, ZPLAN+…, từ đó đã chọn tạo được nhiều dòng, giống vật nuôi có năng suất và chất lượng sản phẩm cao đáp ứng nhu cầu của sản xuất. Cùng với đó, các kỹ thuật di truyền phân tử đang dần được áp dụng rộng rãi vào công tác chọn giống lợn.

     

    Việc áp dụng kỹ thuật di truyền phân tử phân lập và mã hóa các gen liên quan đến các tính trạng thân thịt ở Việt Nam là cần thiết và đã được triển khai nghiên cứu bởi các nhà khoa học thuộc Phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ tế bào động vật (Viện Chăn nuôi), Viện Công nghệ sinh học, Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam và Học Viện Nông nghiệp Việt Nam.

     

    Bước đầu, các nhà khoa học đã xác định được ảnh hưởng của các gen Halothane, RN, MC4, HFABF đến tính trạng năng suất thịt lợn. Các gen liên quan đến năng suất sinh sản như RNF4, RBP4 và IGF2 ở lợn.

     

    Việc ứng dụng thành công công nghệ di truyền phân tử trong giai đoạn này giúp tiến bộ di truyền được thúc đẩy nhanh hơn do rút ngắn được thời gian chọn lọc các tính trạng quan tâm. Đi đầu trong công tác ứng dụng di truyền phân tử trong chọn lọc dòng lợn phải kể đến Học Viện Nông nghiệp Việt Nam với một loạt các nghiên cứu về các gen liên kết ảnh hưởng tới khả năng sinh sản, phẩm chất tinh dịch ở lợn. Hay các tính trạng thân thịt trên các dòng lợn của Tập đoàn Dabaco Việt Nam và Học Viện Nông nghiệp, kết quả chọn lọc cho thấy năng suất sinh sản của dòng lợn Landrace và Yorkshire được nghiên cứu cho số con cai sữa/nái/năm đạt từ 26-28 con.

     

    Các nghiên cứu từ Viện Chăn nuôi cũng được phát triển và kế thừa, đi tiên phong là Phân viện Chăn nuôi Nam bộ với các nghiên cứu kết hợp giữa phương pháp Blup và di truyền phân tử trên các tính trạng sinh sản và sinh trưởng trên lợn.

     

    Kết quả sau 3 thế hệ chọn lọc đã tạo được dòng đực cuối TS3 có khả năng tăng khối lượng/ngày đạt 932g/ngày, dày mỡ lưng đạt 10,8mm, dày thăn thịt 63,8mm, tuổi đạt 100kg là 144,9 ngày, tiêu tốn thức ăn đạt 2,45kg TA/kg tăng khối lượng, tỷ lệ nạc 62,1% và tỷ lệ mỡ giắt đạt 3,22%. Các kết quả nghiên cứu cho biết gen H-FABP, MC4R và PIT-1 đều có mối liên kết chặt chẽ tới khả năng sinh trưởng và chất lượng thân thịt ở đàn lợn nghiên cứu.

    Chăm sóc lợn nái tại Trung tâm Nghiên cứu Lợn Thụy Phương. Ảnh: VCN.

     

    Nghiên cứu, ứng dụng các giống lợn

     

    Trong công tác giống lợn, các cơ sở sản xuất giống lớn chủ yếu áp dụng chọn lọc theo giá trị kiểu hình, dựa trên chỉ số chọn lọc (SPI, MLI hay SLI). Việc ứng dụng di truyền phân tử trong chọn giống đang được thử nghiệm.

     

    Một số dòng, giống lợn đã được chọn lọc, lai tạo theo phương pháp truyền thống như Y-VCN, L-VCN, D-VCN, Pi-VCN; VCN-01, VCN-02… do Viện Chăn nuôi chọn tạo có năng suất tương đương với các giống lợn nhập ngoại của các công ty trong và ngoài nước (số con sơ sinh sống >11 con, số con cai sữa/ổ là 10,5 con, số lứa đẻ/nái/năm là 2,2-2,3 lứa).

     

    Đặc biệt, lợn nái VCN-08 được chọn lọc, nhân thuần từ giống lợn nhập ngoại có năng suất sinh sản rất cao: số con sơ sinh sống/ổ ≥15, số con cai sữa/ổ ≥12, khối lượng cai sữa/con (28 ngày tuổi) ≥5,4 kg/con, số lứa đẻ/nái/năm ≥2,3.

     

    Trong những năm vừa qua, nhiều chính sách, chương trình giống vật nuôi đã được thực hiện và mang lại kết quả tích cực. Nhờ vậy, nhiều giống mới đã được nhập, thuần hoá, lai tạo thành công, góp phần tăng năng suất, chất lượng, đóng góp vào tăng trưởng của ngành chăn nuôi.

     

    Trong thời gian tới, ngành chăn nuôi nước ta sẽ phát triển theo định hướng từ chiều rộng sang chiều sâu. Nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả, bền vững; đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu; bảo vệ môi trường sinh thái.

     

    Trung Tâm Nghiên cứu lợn Thụy Phương

    Nguồn: nongnghiep.vn

    Để đạt các mục tiêu đó cần một chiến lược và giải pháp tổng thể. Trong đó, cần tiếp tục thực hiện chương trình giống vật nuôi quốc gia để đảm bảo tính liên tục, tập trung vào những giống vật nuôi chủ lực là lợn, trong đó hệ thống thụ tinh nhân tạo cần được chú trọng đặc biệt về cả đầu tư lẫn quản lý nhà nước.

     

    Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, ứng dụng giống vật nuôi có năng suất và chất lượng tốt. Ưu tiên chọn tạo các giống vật nuôi bản địa có ưu thế phục vụ cho phương thức chăn nuôi khác nhau nhằm tạo ra các sản phẩm chăn nuôi có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Xây dựng chính sách mới về hỗ trợ các cơ sở nuôi giữ giống gốc theo hướng thị trường, trong đó có cơ chế hỗ trợ bình đẳng giữa cơ sở nhà nước và các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế khác

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.