Nhập khẩu TACN&NL từ EU trong năm 2022:  Dự báo tăng khá - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 58.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đắk Lắk 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 59.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 61.000 đ/kg
    •  
  • Nhập khẩu TACN&NL từ EU trong năm 2022:  Dự báo tăng khá

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] –  Trong những năm gần đây, tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu TACN&NL từ khối thị trường EU trong tổng kim ngạch TACN&NL của cả nước liên tục được cải thiện, nếu như năm 2020 tỷ trọng chỉ đạt 6,5%, thì sang năm 2021 đạt tỷ trọng 7,1% và lên 10,3% trong 6 tháng đầu năm 2022. Với những thuận lợi do Hiệp định EVFTA mang lại, dự báo kim ngạch nhập khẩu TACN&NL từ thị trường EU tăng khá trong năm 2022 và trong những năm tiếp theo, cùng tỷ trọng nhập khẩu không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm trước.

     

     

    Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch nhập khẩu TACN&NL từ khối thị trường EU trong quý 2/2022 tăng mạnh, đạt 153,9 triệu USD, tăng 33,6% so với quý trước và tăng 22,3% so với quý 2/2021. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch nhập khẩu TACN&NL từ khối thị trường EU đạt 269 triệu USD, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2021. Kim ngạch nhập khẩu TACN&NL từ thị trường EU trong 6 tháng đầu năm 2022 chiếm 10,3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Việt Nam, giảm nhẹ so với 10,8% của cùng kỳ năm 2021.

    Thị trường cung cấp: Trong 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch nhập khẩu TACN&NL từ một số thị trường trong khối EU tăng mạnh như Hungari, Hà Lan, Tây Ban Nha, CH Ailen… Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu TACN&NL từ một số thị trường giảm so với cùng kỳ năm 2021 như Ba Lan, Pháp, Slovenia…

     

    Trong quý 2/2022, kim ngạch nhập khẩu TACN&NL từ một số thị trường chính tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2021 như Hungari, Pháp, Rumani… Hungari là thị trường cung cấp TACN&NL lớn nhất cho Việt Nam trong quý 2/2022 và 6 tháng đầu năm 2022, đạt 105,6 triệu USD trong quý 2/2022, tăng 46,9% so với quý trước và tăng 37,3% so với quý 2/2021, chiếm 68,6% tổng kim ngạch nhập khẩu TACN&NL từ EU.

     

    Kim ngạch

    Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch nhập khẩu TACN&NL từ thị trường này đạt 177,5 triệu USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm 2021 và chiếm 66% tỷ trọng nhập khẩu từ EU. Ba Lan là thị trường cung cấp TACN&NL lớn thứ 2 trong khối EU, trong 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch nhập khẩu TACN&NL từ thị trường này đạt 18,7 triệu USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm 2021 và chiếm 7% tỷ trọng nhập khẩu TACN&NL từ khối EU. Riêng trong quý 2/2022, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này đạt 9,9 triệu USD, tăng 12,2% so với quý trước và tăng 13,4% so với quý 2/2021.

     

    Chủng loại nhập khẩu: Trong 6 tháng đầu năm 2022, bột protein động vật là mặt hàng nhập khẩu chính từ khối thị trường EU. Một số chủng loại nhập khẩu tăng mạnh trong 6 tháng đầu năm 2022 như bột thịt xương, bột huyết tương do đây là những mặt hàng chưa được tiêu thụ tại EU và giá cạnh tranh so với các thị trường cung cấp khác. Ngoài ra, chất tổng hợp và bổ trợ, bột gia cầm cũng là những mặt hàng nhập khẩu lớn từ EU.

     

    Bột thịt xương: Trong quý 2/2022, lượng nhập khẩu bột thịt xương từ khối thị trường EU đạt 129,5 nghìn tấn, trị giá 72,9 triệu USD, tăng 24,6% về lượng và tăng 39,8% về trị giá so với quý trước, tăng 9,6% về lượng và tăng 23,8% về trị giá so với quý 2/2021. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, lượng nhập khẩu mặt hàng bột thịt xương từ EU đạt 233,4 nghìn tấn, trị giá 125,1 nghìn tấn, tăng 7,5% về lượng và tăng 25,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Nhập khẩu bột thịt xương từ khối thị trường EU chiếm 63,7% về lượng và 63,3% về trị giá trong tổng nhập khẩu bột thịt xương của Việt Nam. Dự báo lượng nhập khẩu bột thịt xương của Việt Nam từ EU trong năm 2022 tăng mạnh so với năm 2021 do những thuận lợi của Hiệp định EVFTA mang lại.

    Trong khối thị trường EU, Hà Lan là thị trường cung cấp lớn nhất mặt hàng bột thịt xương cho Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2022, đạt 54 nghìn tấn, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2022 và chiếm 23,1% tổng lượng bột thịt xương nhập khẩu trong khối. Giá nhập khẩu bình quân mặt hàng này từ Hà Lan đạt 525 USD/tấn, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2022. Mức giá nhập khẩu này thấp hơn so với giá nhập khẩu trung bình từ toàn khối EU là 536 USD/tấn.

     

    Italy là thị trường cung cấp bột thịt xương lớn thứ 2 cho Việt Nam, đạt 49,3 nghìn tấn trong 6 tháng đầu năm 2022, tăng 37% so với cùng kỳ năm 2021 và chiếm 21,1% tỷ trọng nhập khẩu trong khối. Giá nhập khẩu bình quân bột thịt xương từ thị trường này trong 6 tháng đầu năm 2022 ở mức 562 USD/tấn, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

     

    Kim ngạch nhập khẩu bột thịt xương từ một số thị trường đạt mức tăng trưởng 3 con số như: Pháp, Latvia, Rumani… Nhập khẩu bột thịt xương từ một số thị trường tăng ở mức 2 con số như: Ba Lan, CH Ailen, Áo… 6 tháng đầu năm 2022, giá nhập khẩu bình quân mặt hàng bột thịt xương từ thị trường Latvia có giá thấp nhất; Tiếp đến là giá nhập khẩu từ Áo và Ba Lan đạt 506 USD/tấn.

    + Nhóm chất tổng hợp và bổ trợ (CTH&BT):

     CTH&BT là mặt hàng đạt kim ngạch lớn thứ 2 trong khối EU. Trong quý 2/2022, kim ngạch nhập khẩu nhóm chất này đạt 10,5 nghìn tấn, trị giá 20,4 triệu USD, tăng 9,8% về lượng và tăng 23,6% về trị giá so với quý trước, nhưng giảm 2,9% về lượng và giảm 13,8% về trị giá so với quý 2/2021. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, nhập khẩu CTH&BT đạt 20,2 nghìn tấn, trị giá 26,9 triệu USD, giảm 7,9% về lượng và giảm 15,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.

     

    Thị trường cung cấp: Trong 6 tháng đầu năm 2022, Hà Lan là thị trường cung cấp lớn nhất nhóm CTH&BT của Việt Nam, đạt 9,3 nghìn tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2021 và chiếm 46% tổng lượng nhập khẩu CTH&BT từ EU, tăng so với 40,6% của cùng kỳ năm 2021. Các chất nhập khẩu chính từ Hà Lan là Premulac 20, Serolat HL, Nuklospray S20-20…

     

    Bột gia cầm

     

    Bột gia cầm là mặt hàng nhập khẩu lớn thứ 2 trong khối EU (tính theo lượng), đạt 15,9 nghìn tấn, trị giá 12,2 triệu USD trong quý 2/2022, tăng 120,6% về lượng và tăng 129,4% về trị trị giá so với quý trước, tăng 4,3% về lượng và tăng 9,7% về trị giá so với quý 2/2021. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, lượng nhập khẩu mặt hàng bột gia cầm đạt 223,1 nghìn tấn, trị giá 17,5 triệu USD, giảm 40,9% về lượng và giảm 35,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Nhập khẩu mặt hàng bột gia cầm về Việt Nam từ EU chiếm 22,5% về lượng và 18,5% về trị giá trong tổng nhập khẩu bột gia cầm của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2022, giảm so với tỷ trọng 31,4% về lượng và 26,5% về trị giá của cùng kỳ năm 2021. Chủng loại nhập khẩu TACN&NL từ EU quý 2/2022 và 6 tháng đầu năm 2022 (Lượng: tấn; Trị giá: nghìn USD).

    Đánh giá triển vọng:

     

    Trong thời gian tới, dự kiến hoạt động nhập khẩu TACN&NL từ thị trường EU sẽ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn do những mặt hàng trong nhóm bột protein động vật chưa được phép tiêu thụ tại thị trường các nước trong khối, các mặt hàng như bột thịt xương, bột gia cầm, bột lông vũ… được sản xuất ra chỉ để xuất khẩu. Do đó, nguồn cung các mặt hàng này rất dồi dào, cùng với những lợi thế mà Hiệp định EVFTA khiến các dòng thuế nhập khẩu hầu hết bằng không nên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập khẩu. Hiện Việt Nam là thị trường xuất khẩu ngoại khối ngày càng quan trọng của EU.

     

    Theo số liệu thống kê của ITC, trong 5 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu nhóm mặt hàng protein động vật gồm bột thịt xương, bột gia cầm, bột gan mực, bột cá (HS 2301) của 27 thị trường thuộc Liên minh EU đạt 779,9 triệu USD, giảm 20,6% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang Việt Nam đạt 115,3 triệu USD, chỉ giảm nhẹ 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Với kết quả này, hiện Việt Nam là thị trường xuất khẩu TACN&NL (HS 2301) ngoại khối lớn thứ 4 của EU và lớn nhất tại châu Á.

    PV

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Mạnh
  • Bài viết đã cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích! Nếu bạn đang tìm kiếm thêm nguồn cung cấp bột đá, đá hạt, vôi bột và bột dolomite chất lượng cao cho các ngành sản xuất, hãy ghé thăm bột đá đá hạt dolomite vôi bột . Chúng tôi tự hào mang đến sản phẩm với tiêu chuẩn nghiêm ngặt, giá cả cạnh tranh và giao hàng nhanh chóng. Rất hân hạnh được hợp tác cùng bạn!

  • Đỗ Đại Trùng Dương
  • Tôi muốn liên kết.

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.