Cung cầu bò thịt: Nhập khẩu chiếm gần một nửa nhu cầu tiêu dùng - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 61.000 - 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 63.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 58.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 62.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 60.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đắk Lắk 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 59.000 - 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 60.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 62.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi TP. Hồ Chí Minh 61.000 đ/kg
    •  
  • Cung cầu bò thịt: Nhập khẩu chiếm gần một nửa nhu cầu tiêu dùng

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Năm 2020, sản lượng bò thịt chăn nuôi trong nước đạt 441,51 nghìn tấn, nhưng Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 550 nghìn con bò thịt và 106,5 nghìn tấn thịt bò đã giết mổ – tổng lượng nhập khẩu quy đổi ra thịt bò tương đương 300 nghìn tấn.

     

                         Pha lóc thịt bò tại Công ty Phú Lâm, Quảng Ninh. Ảnh Quốc Minh

     

    Sản lượng thịt bò mới đáp ứng 60% nhu cầu

     

    Theo Cục Chăn nuôi, năm 2020, đàn bò thịt đạt 6,325 triệu con tăng 4,38 % so với năm 2019; đàn trâu  đạt 2,33 triệu con, giảm 2,31 % so với năm 2019.Tính đến cuối tháng 5/2021, ước tính tổng số trâu của cả nước giảm khoảng 2,8%; số lượng bò tăng khoảng 2,0% so với cùng thời điểm năm 2020.

     

    Năm 2020, sản lượng thịt bò đạt 441,51 ngàn tấn, tăng 2,51 % so với năm 2019, sản lượng thịt trâu đạt 120,25 ngàn tấn, giảm 4,02 % so với năm 2019.

     

    Hiện cả nước có 2,33 triệu hộ nuôi bò thịt và 1,23 triệu hộ nuôi trâu. Trên 90% số lượng bò thịt được nuôi theo phương thức nhỏ, tập quán chăn nuôi truyền thống, có gần 2,2 triệu hộ nuôi dưới 5 con/hộ, chiếm 93,12% tổng số hộ chăn nuôi bò thịt của cả nước; có trên 132 ngàn hộ nuôi từ 6-10 con/hộ, chiếm 5,67%; có trên 23 ngàn hộ nuôi từ 11-20 con/hộ, chiếm 1% tổng số hộ chăn nuôi bò thịt của cả nước. Các hộ chăn nuôi bò thịt quy mô trên 20 con/hộ còn hạn chế, chỉ chiếm 0,21% tổng số hộ nuôi bò thịt của cả nước.

     

    Những năm gần đây đã có nhiều doanh nghiệp đầu tư chăn nuôi bò thịt quy mô lớn theo chuỗi nông nghiệp tuần hoàn rất có hiệu quả như: Công ty Thái Sơn ở Đồng Nai, Công ty Pacow ở Tây Ninh, Công ty T&T 159 ở Hòa Bình…

     

    Ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, trái ngược với xu thế thị trường tiêu thụ một số nông sản có xu hướng giảm, nhưng nhu cầu đối với thịt bò ở nước ta vẫn duy trì tăng trưởng 5-6%/năm. Hiện mức tiêu thụ thịt bò trung bình của người Việt Nam đạt 3,15 kg thịt xẻ/người/năm và sẽ còn tiếp tục tăng trong những năm tới.

     

    Do sản lượng thịt bò trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng nên lượng bò thịt và thịt bò nhập khẩu về liên tục tăng. Năm 2020, số lượng bò sống được nhập khẩu về Việt Nam gần 550 nghìn con, tương đương 194,2 ngàn tấn thịt (tính bình quân 350 kg/con), tăng 13,6% so với năm 2019. Trong đó  số lượng bò nhập khẩu từ Úc là gần 301 nghìn con, chiếm 50,1% thị phần, tiếp theo đó là Thái Lan, Mỹ và một lượng ít từ Lào.Trong năm 2020, lượng nhập khẩu thịt bò đã qua giết mổ của Việt Nam đạt 106,5 nghìn tấn, tăng 30,4% so với năm 2019, tương đương với 24,8 nghìn tấn. Lượng thịt bò đã qua giết mổ nhập về Việt Nam tăng từ 7/2019, thời điểm giá thịt lợn trong nước đang ở mức cao nên các doanh nghiệp nhập khẩu tận dụng gia tăng lượng nhập thịt bò. Úc tiếp tục là nước giữ vị trí dẫn đầu về xuất khẩu thịt bò sang Việt Nam chiếm hơn 42% thị phần, Mỹ chiếm 30,7%. Xét về giá trị, tổng kim ngạch nhập khẩu thịt trâu bò trong năm 2020, đạt gần 414,4 triệu USD, tăng 28,8% so với năm 2019, tương đương 92,6 triệu USD.

     

    Thúc đẩy chăn nuôi bò thịt

     

    Ông Nguyễn Văn Trọng nhận định, chăn nuôi gia súc ăn cỏ các năm tiếp theo có nhiều cơ hội phát triển, bởi nhu cầu tiêu dùng trong nước về sản phẩm của gia súc ăn cỏ ngày càng tăng cao. Hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng cũng tạo ra những cơ hội cho chăn nuôi khi được tiếp cận với công nghệ mới, giống mới, phương thức tổ chức sản xuất và quản lý tiên tiến.

     

     Tuy nhiên hiện nay, phát triển chăn nuôi trâu bò thịt đang đối mặt với nhiều thách thức. Tình hình dịch Covid 19 trên thế giới và tại Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến chuỗi cung ứng thực phẩm do hạn chế đi lại, giao thương, buôn bán.  Các hiệp định tư do thương mại của Việt Nam với các nước, nhất là hiệp định CPTPP và EVFTA là cơ hội để các sản phẩm gia súc ăn cỏ của những nước có lợi thế chăn nuôi này sẽ thâm nhập ngày càng nhiều hơn vào thị trường Việt Nam.Chăn nuôi gia súc ăn cỏ phụ thuộc nhiều vào nguồn thức ăn thô xanh nhưng nước ta không có đồng cỏ, bãi chăn thả tự nhiên như các nước có nền chăn nuôi phát triển như Hoa Kỳ, Úc, New Zealand…     

     

    Ngành chăn nuôi đề ra mục tiêu sản lượng thịt bò đến năm 2025 đạt 550 nghìn  tấn; đến năm 2030 đạt từ 600 nghìn đến 650 nghìn tấn. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có hàng loạt chính sách nhằm thúc đẩy chăn nuôi bò thịt. Về chính sách đất đai, sẽ dành quỹ đất để phát triển chăn nuôi bò thịt, ưu tiên giao đất, thuê đất cho các cơ sở giống, cơ sở chăn nuôi trang trại tập trung.Sẽ chuyển phần lớn diện tích ở những nơi phù hợp và một phần diện tích đất nông nghiệp hiệu quả thấp sang thâm canh trồng cỏ và cây thức ăn chăn nuôi. Tổng diện tích đất các loại cho nhu cầu này từ 0,5 đến 1,0 triệu ha.

     

    Đối với công tác giống phục vụ phát triển chăn nuôi bò thịt, Cục Chăn nuôi sẽ tiếp tục chọn lọc trong sản xuất các giống bò Zebu, nhập nội bổ sung một số giống bò cao sản. Ở các vùng chăn nuôi phát triển, tương đối tập trung, dân trí phát triển, sẽ sử dụng tinh của các giống bò cao sản (Red Angus, Droughtmaster, Limousine, Charolaire, Blanc Bleu Belge, Wagyu, Senepol, Blonde d’ Aquitaine…) phối giống bằng thụ tinh nhân tạo (với bò cái nền lai Zêbu có tỷ lệ máu lai trên 75%.

     

    Đối với chính sách tài chính và tín dụng, Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợxây dựng cơ sở hạ tầng, bao gồm đường, điện, nước và xử lý môi trường cho cơ sở sản xuất giống, cơ sở giết mổ. Nhà nước cũng đầu tư hạ tầng cơ sở xây dựng các trung tâm hội chợ, trung tâm đấu giá, chợ đầu mối giới thiệu, tiêu thụ các sản phẩm bò thịt. Các ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân vay vốn theo chính sách chính sách ưu đãi của nhà nước để đầu tư con giống, trang trại, đổi mới công nghệ. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng chợ đầu mối, trung tâm đấu giá, sàn giao dịch thương mại điện tử nhằm thúc đẩy thương mại bò thịt và thịt bò.

     

    Bảng 1. Số lượng đầu con  gia súc ăn cỏ giai đoạn 2018-2020 (con)

    Tổng đàn (con)

    Năm

    So sánh tỷ lệ  % 2020/2019

    2018

    2019

    2020

    Tổng đàn bò

    5.802.907

    6.060.024

    6.325.627

    104,38

    Bò lai

    3.395.050

    5.870.764

    5.912.891

    100,72

    – Bò thịt

    5.508.525

    5.742.295

    5.994.259

    104,39

    – Bò sữa

    294.382

    317.729

    331.368

    104,29

    Trâu

    2.425.105

    2.387.887

    2.332.754

    97,69

    2.683.942

    2.609.198

    2.654.573

    101,74

    Cừu

    150.022

    121.416

    114.165

    94,03

    Thỏ

    1.044.370

    1.116.869

    1.237.006

    110,84

    Hươu, nai

    62.790

    57.615

    61.784

    107,23

     

     

    Bảng 2: Sản lượng thịt, sữa của GSAC giai đoạn 2018-2020 (nghìn tấn)

    Năm

    Năm 2018

    2019

    2020

    So sánh % 2020/2019

    Thịt bò

    334,47

    430,69

    441,511

    102,51

    Thịt trâu

    92,11

    125,28

    120,25

    95,98

    Sữa bò tươi

    936,00

    986,12

    1049,26

    106,40

    Thịt dê, cừu

    32,47

    36,65

    37,56

    102,48

    Thịt thỏ

    3,44

    3,89

    4,36

    112,08

    Thịt hươu, nai

    0,41

    0,34

    0,44

    129,41

                                                      

      Chu Khôi

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Mạnh
  • Bài viết đã cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích! Nếu bạn đang tìm kiếm thêm nguồn cung cấp bột đá, đá hạt, vôi bột và bột dolomite chất lượng cao cho các ngành sản xuất, hãy ghé thăm bột đá đá hạt dolomite vôi bột . Chúng tôi tự hào mang đến sản phẩm với tiêu chuẩn nghiêm ngặt, giá cả cạnh tranh và giao hàng nhanh chóng. Rất hân hạnh được hợp tác cùng bạn!

  • Đỗ Đại Trùng Dương
  • Tôi muốn liên kết.

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.