Cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn của vật nuôi bằng cách chọn và nhân giống (Kỳ II) - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 67.000 - 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 67.000 - 72.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Nam 69.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 72.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 73.000 - 74.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 73.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 74.000 đ/kg
    •  
  • Cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn của vật nuôi bằng cách chọn và nhân giống (Kỳ II)

     

    KHẢ NĂNG DI TRUYỀN CỦA RFI

     

    Đối với gà thịt và gà đẻ

     

    Các nghiên cứu cho thấy, hệ số di truyền (h2) của FCR và RFI ở gia cầm có giá trị ở mức trung bình, vì vậy có thể chọn lọc 2 tính trạng này để cải thiện FE (Aggrey và ctv, 2010; Wolc và ctv, 2013; Luo và ctv, 2015). Theo Liu và ctv (2017), h2 của FCR và RFI ở gia cẩm lần lượt là 0,29 và 0,50. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu lại nhận thấy RFI có h2 tương đối cao, khoảng 0,30-0,60 (Mielenz và ctv, 1994; Yuan và ctv, 2015a). Kennedy và ctv (1993) cho rằng giá trị của h ước tính được đối với RFI có phạm vi biến động rộng (0,03-0,84).

     

    Hệ số di truyền của RFI ở gà thịt dao động 0,42-0,49 (Aggrey và ctv, 2010). Nghiên cứu trên gà bản địa Trung Quốc, Yi và ctv (2018) cho biết h2 của RFI là 0,28 (0,21-0,49); trong khi đó, h2 của FCR là 0,31 (0,2-0,8). Prakash và ctv (2020) cho rằng, lựa chọn tuổi gà để đánh giá RFI và FCR cũng là một yêu cầu quan trọng vì h2 của hai tính trạng này biến động theo tuổi (0,21-0,49 và 0,11-0,44). Theo Aggrey và ctv (2010), h của FCR và RFI ở gà 28-35 ngày tuổi tương ứng là 0,49 và 0,45, nhưng tại 35 ngày tuổi tương ứng là 0,41 và 0,42.

     

    Nghiên cứu trên gà đẻ trứng nâu, Wolc và ctv (2013) cho biết RFI có h2 là 0,14 đối với phương pháp phân tử đánh dấu và bằng 0,47 đối với phương pháp sử dụng hệ phổ. Tuy nhiên, vẫn còn ít các nghiên cứu về h2 của RFI đối với gà đẻ có nguồn gốc di truyền khác nhau.

     

    Hệ số di truyền của RFI ở vịt đẻ là 0,24 và có hệ số tương quan di truyền (rg) ở mức độ chặt chẽ với FI (Basso và ctv, 2012).

     

    Ở gà tây, h2 của FCR và RFI tương ứng là 0,22 và 0,24 (Case và ctv, 2012).

     

    Một số nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đánh giá mối quan hệ giữa RFI và FCR. Hệ số tương quan kiểu hình và rg của gà Leghorn tương ứng là 0,37 và 0,43 (Yuan và ctv (2015b), của gà tây tương ứng là 0,15 và 0,36 (Willems và ctv, 2013). Hệ số rg giữa hai tính trạng này của gà bản địa Trung Quốc là 0,69 (Yi và ctv, 2018), của gà tây là 0,80 (Case và ctv, 2012).

     

    Đối với lợn

     

    Theo Nguyen và ctv (2001), h2 của RFI tính theo công thức 1 và 2 lần lượt là 0,24 và 0,20, hệ số rg của RFI với FCR và BF tính theo công thức (1) lần lượt là 0,50 và 0,13, còn tính theo công thức (2) lần lượt là 0,29 và 0,20. Theo Hsu và ctv (2015), h2 của RFI, FI, ADG, BF, LMA và FCR tương ứng là 0,28, 0,45, 0,38, 0,49, 0,53 và 0,29. Hệ số rg giữa RFI với FI, ADG, BF, LMA và FCR là 0,69, 0,16, 0,23, -0,32 và 0,68.

     

    Sirichokchatchawan và Imboonta (2015) nghiên cứu trên lợn Landrace nuôi tại Thái Lan cho biết h của RFI ước tính được là thấp (0,16), trong khi các ước tính đối với FE và ADG ở mức vừa phải (0,33 và 0,38). Hệ số rg giữa RFI và FE ở mức độ vừa phải (-0,55). Hệ số di truyền của RFI và DFI là tương đối thấp (0,15), trong phạm vi các nghiên cứu trước đó. RFI có rg âm với ADG và BF (-0,16 và -0,15) (Gilbert và ctv, 2006). Theo Saintilan và ctv (2013), h2 ước tính được của RFI đối với lợn Landrace, LW (dòng cái), LW (dòng đực) và Piétrain tương ứng là 0,23; 0,21;0,26 và 0,33. Hệ số rg giữa RFI với FCR của các nhóm lợn nêu trên tương ứng là 0,53; 0,52; 0,69 và 0,85.

     

    Đối với bò thịt và bò sữa

     

    Các nghiên cứu về khả năng di truyền của RFI trên bò thịt được tiền hành ở Australia từ những năn 1990. Kriese-Anderson (2016) cho biết h2 của RFI mà một số nghiên cứu ước tính được đối với bò thịt dao động từ 0,24 (Hoque và ctv, 2006) đến 0,58 (Mao và ctv 2013), dao động từ 0,22 (Pryce và ctv, 2012) đến 0,47 (Durunna và ctv 2013) đối với bò cái tơ.

     

    Theo Tempelman và ctv (2015), h2 của RFI ở bò sữa là 0,1-0,25. Nghiên cứu trên bò Holstein Canada, Manafiaza và ctv (2015) cho biết h2 của RFI là 0,30. Trong khi đó, h2 của RFI mà Pryce và ctv (2015) ước tính được trên bò sữa Holstein Canada là 0,20. Trên cơ sở dữ liệu 44 tuần tiết sữa của bò Holstein, Li và ctv (2017) cho biết h của RFI dao động 0,10-0,23. Houlahan và ctv (2021) sử dụng 2.030 kỳ tiết sữa thứ nhất của bò Holstein Canada ước tính được h2 của RFI là 0,13.

     

    Jamrozik và Sullivan (2024) đã thực hiện việc phần tích dữ liệu của 5.000 bò cái sữa Holstein Canada trong chu kỳ cho sữa thứ nhất với 9.000 con vật trong hệ phổ. Mô hình MT và RM đã được sử dụng với thuật toán MC-EM-REML (Monte Carlo-Expectation Maximization-Restricted Maximum Likelihood) và GLUP (Genomic Linear Unbiased Prediction) đã ước tính được 4 giá trị khác nhau của RFI là pRFI (kiếu hình của RFI), gRFI (kiểu gen của RFI), eRFI (môi trường thường xuyên của RFI) và rRFI (sai số của RFI). Ước tính về h2 của RFI dao động từ 0,05 (gRFI) đến 0,15 (rRFI). Các kết quả thu được cho thấy các định nghĩa khác nhau về RFI ở bò sữa và hậu quả của việc sử dụng các định nghĩa này trong việc đánh giá và chọn lọc di truyền.

     

    CHỌN GIỐNG NHẰM CẢI THIỆN RFI

     

    Đối với gà thịt và gà trứng

     

    Những gia cẩm RFI thấp (R-) đòi hỏi ít thức ăn hơn để đạt được BW và năng suất tương đương và do đó được coi là hiệu quả hơn so với những gia cẩm có RFI cao (R+) (Zhang và Aggrey, 2003). Nhiều khảo sát đã đi đền quyết định rằng giai đoạn thử nghiệm chỉ cần kéo dài bốn tuần là đủ để cung cấp thông tin nhất quán cho đánh giá di truyền của RFI ở nhiều loài gia cầm (Foomani và ctv, 2014; Yuan và ctv, 2015a).

     

    Yang và ctv (2020) cho biết, chọn lọc gà RFI thấp giảm được tích lũy mỡ của gà bản địa mà không ảnh hưởng đến chất lượng thịt. Tác dụng của IGF-1, T3, cortisol và LDL-C đối với hiệu quả sử dụng thức ăn của gà bản địa nên được kiểm tra và xác nhận thêm đối với các chương trình nhân giống tương lai.

     

    Một thử nghiệm trên gà bản địa của Trung Quốc đã được thực hiện nhằm đánh giá tác động của chọn giống đối với RFI qua 13 thể hệ. Các giá trị của RFI ở thể hệ xuất phát của con trổng và con mái tương ứng là 279 và 290, sau 13 thể hệ RFI ở con trống và con mái tương ứng là 73-87 và 85-110. Như vậy, RFI đã được cải thiện một cách có ý nghĩa đối với cả con trống và con mái, điều này xác nhận rằng có thể sử dụng RFI trong việc cải thiện di truyền về hiệu quả sử dụng thức ăn ở gà thịt (Zou và ctv, 2023).

     

    Theo Poompramun và ctv (2022), giữa RFI và các đặc điểm chất lượng thịt chỉ có mối tương quan ở mức độ thấp. Tính trạng RFI có thể thay thế cho FCR trong khía cạnh đảm bảo chất lượng thịt của gà Korat nuôi ở Thái Lan. Cũng theo Poompramun và ctv (2022), thịt đùi của gà với RFI thấp và cao không khác biệt về các đặc điểm hóa lý, nhưng gà với RFI thấp có hàm lượng lipid, este lipid, collagen (amid IlI) và beta sheet protein cao, trong khi gà RFI cao lại có hàm lượng protein (amide I, amide I1), alpha helix protein, inosin monophospate, carbonhydrate, pH và khả năng giữ nước cao.

     

    Theo Basso và ctv (2012), chọn giống theo RFl sẽ giảm được Fl ở vịt đẻ. Ngoài ra còn tăng được sản lượng trứng, tỷ lệ trứng thụ tinh và ấp nở. Yuan và ctv (2015b) cho rằng chọn giống theo RFI thấp có thế giảm Fl mà không làm thay đổi đáng kể về các tính trạng thành phần trong mô hình, trong khi lựa chọn trên FCR sẽ tăng EM đối với gà đẻ trứng.

     

    Đối với lợn

     

    Hsu và ctv (2015) đã chọn giống lợn Yorkshire đối với dòng RFI thấp (LRFI) theo hướng giảm giá trị giống (Estimated Breeding Value-EBV) đối với RFl. Trong khi đó, dòng Yorkshire RFI cao (HRFI) được giao phối ngẫu nhiên đến thế hệ 4, sau đó được chọn theo hướng tăng EBV đối với RFI từ thế hệ 5 đến thế hệ 10. Sau 9 thế hệ chọn lọc, dòng LRFI có RFI thấp hơn 201 g/ngày, Fl ít hơn 277 g/ngày, ADG thấp hơn 29 g/ngày, BF thấp hơn 2,3 mm, LMA thấp hơn 1,5cm’ và FCR thấp hơn 0,26 so với dòng HRFI. Khác biệt giữa 2 dòng (LRFI- HRFI) về giá trị trung bình bình phương nhỏ nhất ở lứa đẻ đầu tiên ở thế hệ 10 của RFI, FI, ADG, BF, LMA và FCR tương ứng là -241 g/ngày (P<0,0001), -444 g/ngày (P<0,0001), -75,5 g/ngày (P<0,003), -2,5mm (P<0,046), -0,5cm’ (P>0,05) và -0,29 (P<0,002).

     

    Các tác giả đi đến kết luận: chọn giống lợn theo hướng tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, dòng RFI thấp ăn ít hơn, tăng trưởng chậm hơn một chút và nhiều nạc hơn so với dòng lợn RFI cao. Do đó, chọn giống theo hướng giảm RFI có thể cải thiện được hiệu quả sử dụng thức ăn và có thể được đưa RFI vào chỉ số chọn lọc cùng với tăng trưởng để giảm chi phí thức ăn.

     

    Meunier-Salaün và ctv (2014) đã chọn qua 7 thế hệ đối với 2 dòng lợn Landrace, dòng RFI cao và RFI thấp. Các tác giả nhận thấy sự khác biệt về các chỉ tiêu sinh trưởng giữa 2 dòng này, lợn ở dòng RFI thấp ăn ít hơn và có hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn (P<0,001) so với lợn ở dòng RFI cao. Lợn ở dòng RFI thấp có các hoạt động vật lý thấp hơn, đóng góp khoảng 14% chênh lệch về Fl giữa 2 dòng nhưng không gây ảnh hưởng lớn về sức khôe. Young và ctv (2016) đã chọn giống theo RFI trong giai đoạn sinh trưởng đối với 2 dòng lợn qua 7 thế hệ. Dòng được chọn giống theo hướng giảm RFI có được hiệu quả tốt về năng suất lợn con và hiệu quả tiết sữa của lợn mẹ, nhưng ảnh hưởng không tốt đến thể trạng lợn mẹ và sự cân bằng năng lượng trong thời gian cho con bú.

     

    Steckelberg và ctv (2015) đã đánh giá ảnh hưởng của chọn giống theo RFI trong giai đoạn kết thúc sinh trưởng dựa trên hiệu quả sử dụng thức ăn trong giai đoạn bú sữa. Trong giai đoạn bú sữa 40 ngày, lợn con của dòng RFI thấp tiêu thụ thức ăn ít hơn 20%, tăng cân ít hơn 8%, do đó chúng có hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn 12% so với lợn con của dòng RFl cao.

     

    Đối với bò thịt và bò sữa

     

    Wang và ctv (2012) cho biết so với các đực giống khác, việc sử dụng bò đực có RFI thấp phối giống trực tiếp trong đàn không gây hậu quả bất lợi về khả năng sinh sản. Tuy nhiên, hiện tượng giảm vận động của tinh trùng và số lượng đời con sinh ra nhiều hơn cần được tiếp tục đánh giá.

     

    Với mục đích thử nghiệm chọn giống theo hệ gen (Genomic Selection) đối với RFI, Pryce và ctv (2011) đã sử dụng dữ liệu về sinh trưởng và thức ăn của 2.000 bò cái tơ ở Australia và New Zealand và chip 625.000 SNP. Độ chính xác đạt được đối với RFI và BW lần lượt là 0,37 và 0,31 ở bò Australia và 0,40 và 0,25 ở bò New Zealand. Kriese-Anderson (2016) đã nhận định rằng RF| là một tính trạng có khả năng di truyền ở mức độ vừa phải, độc lập với sinh trưởng và BW vì vậy có thể là một trong những công cụ chọn lọc hiệu quả ở bò thịt. Tuy nhiên, việc xác định RFI không hề không dễ dàng. Các nghiên cứu đã cho thấy chọn lọc bò cái tơ theo RFI có hiệu quả đối với khả năng sinh sản của bò cái sau này, tuy nhiên khuynh hướng này không xuất hiện ở đàn bò cái tơ Bragus của Đại học Auburn và điều này cần được tiếp tục theo dõi. Tác giả đề xuất nên chọn lọc các bò cái tơ trong phạm vi £0,5SD so với giá trị trung bình RFI của đàn.

     

    Houlahan và ctv (2021) đánh giá hiệu quả của việc sử dụng chỉ số kết hợp giữa DFI và RFI đối với bò sữa cho thấy chọn lọc theo RFI mang lại đáp ứng cao nhất về kinh tế nói chung, bao gồm cả sức sản xuất và hiệu quả sử dụng thức ăn. Theo thời gian, đáp ứng chọn lọc được tích lũy, con vật giảm tiêu thụ hàng ngày 0,16-2,70kg vật chất khô, nhưng vẫn duy trì được sức sản xuất. Tăng áp lực chọn lọc đối với RFI không tạo được thuận lợi về sức sản xuất, sức khỏe, khả năng sinh sản và trạng thái cơ thể. Vì vậy, cần xem xét đến tác động lâu dài về việc chọn lọc theo RFI.

     

    KẾT LUẬN

     

    Chênh lệch lượng thức ăn ăn vào thực tế và dự kiến (RFI) là một tính trạng di truyền độc lập, có phân bố chuẩn và hệ số di truyền trung bình. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy RFI nên được đưa vào chương trình chọn giống để cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn ở vật nuôi như gà thịt, gà đẻ, lợn, và bước đầu ở bò thịt, bò sữa. Tuy nhiên, cần tiếp tục nghiên cứu các tác động không mong muốn liên quan và hoàn thiện quy trình đánh giá, chọn giống theo RFI, đặc biệt ở bò.

    Đặng Vũ Bình

    Email: [email protected]

     

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Nguyễn Thu Hoài
  • Giá bao nhiêu vậy ạ

  • Nguyễn Hòa Thuận
  • Mình muốn mua xài

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.