Tại Việt Nam, hiện nay tỷ trọng thức ăn chăn nuôi công nghiệp (thức ăn được sản xuất tại các cơ sở có dây chuyền, thiết bị công nghiệp) chiếm khoảng 70% tổng nhu cầu thức ăn của toàn ngành chăn nuôi, số còn lại (khoảng 30%) là do người chăn nuôi tận dụng từ nguồn nguyên liệu thức ăn sẵn có hoặc mua nguyên liệu về tự phối trộn.

Hiện nay, tỷ trọng TACN công nghiệp chiếm khoảng 70% tổng nhu cầu thức ăn toàn ngành chăn nuôi
Theo tập quán tiêu dùng, người Việt Nam tiêu thụ thịt lợn, thịt gia cầm và trứng nhiều hơn thịt trâu, bò, sữa… từ gia súc ăn cỏ, do đó thức ăn chăn nuôi (TACN) công nghiệp chủ yếu được sản xuất ở dạng thức ăn tinh hỗn hợp hoàn chỉnh dùng cho chăn nuôi lợn và gia cầm. Đối với chăn nuôi gia súc ăn cỏ (trâu, bò, dê, cừu, thỏ) nguồn thức ăn chủ yếu là thức ăn thô (rơm, cỏ, phụ phẩm nông nghiệp…). Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn và gia cầm trong những năm qua, ngành sản xuất TACN công nghiệp của nước ta cũng không ngừng phát triển, cụ thể:
– Năm 2019 cả nước có 265 cơ sở sản xuất TACN công nghiệp, đến năm 2021 là 269 cơ sở (doanh nghiệp FDI 90 cơ sở, trong nước 179 cơ sở), tập trung nhiều nhất ở vùng đồng bằng Sông Hồng, Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Tổng công suất thiết kế của 269 cơ sở là 43,3 triệu tấn, trong đó doanh nghiệp FDI chiếm khoảng 51%, trong nước chiếm khoảng 49%.
– Sản lượng TACN công nghiệp của cả nước năm 2019 đạt 18,9 triệu tấn, đến năm 2021 đạt 21,9 triệu tấn, tăng 15,9%, trong đó doanh nghiêp FDI chiếm khoảng 60%, trong nước khoảng 40% về sản lượng.
– Cơ cấu sản lượng TACN công nghiệp theo nhóm vật nuôi:
+ Năm 2019: TACN cho lợn chiếm 49,7%; cho gia cầm chiếm 47,2%; cho vật nuôi khác 3,1%.
+ Năm 2020: TACN cho lợn chiếm 43,9%; cho gia cầm chiếm 52,7%; cho vật nuôi khác 3,4%
+ Năm 2021: TACN cho lợn chiếm 55,8%; cho gia cầm chiếm 40,4%; cho vật nuôi khác 3,8% (cơ cấu này tương đương với những năm 2018 trở về trước).
Chi tiết về số lượng cơ sở, công suất thiết kế và sản lượng TACN công nghiệp giai đoạn 2019-2021 được thể hiện tại Bảng 1, Bảng 2, Bảng 3.
Bảng 1. Số lượng cơ sở sản xuất, công suất thiết kế TACN công nghiệp năm 2021 theo vùng (1.000 tấn)
|
TT |
Vùng |
Số lượng cơ sở |
Tỷ lệ (%) |
Công suất thiết kế |
Sản lượng thực tế |
Tỷ lệ SX/ Công suất (%) |
|
1 |
Đồng bằng Sông Hồng |
126 |
46,8 |
17.380 |
8.231 |
47,4 |
|
2 |
Đông Nam Bộ |
54 |
20,1 |
12.751 |
7.438 |
58,3 |
|
3 |
ĐB Sông Cửu Long |
40 |
14,9 |
6.975 |
2.963 |
42,5 |
|
4 |
Bắc Trung Bộ |
15 |
5,6 |
1.404 |
372 |
26,5 |
|
5 |
DHNTB |
14 |
5,2 |
1.487 |
609 |
41,0 |
|
6 |
Đông Bắc |
14 |
5,2 |
2.441 |
1.969 |
80,7 |
|
7 |
Tây Bắc |
6 |
2,2 |
814 |
308 |
38,0 |
|
Tổng số |
269 |
100 |
43.254 |
21.895 |
50,6 |
Bảng 2. Sản lượng TACN giai đoạn 2019-2021 theo vùng sinh thái (1.000 tấn)
|
TT |
Vùng |
2019 |
2020 |
2021 |
|
1 |
Bắc Trung Bộ |
470 |
541 |
609 |
|
2 |
Duyên hải Nam Trung Bộ |
1.667 |
1.645 |
1.969 |
|
3 |
Đông Bắc |
422 |
499 |
372 |
|
4 |
Đồng bằng Sông Cửu Long |
2.947 |
2.785 |
2.963 |
|
5 |
Đồng bằng Sông Hồng |
7.268 |
7.902 |
8.231 |
|
6 |
Đông Nam Bộ |
5.975 |
6.589 |
7.438 |
|
7 |
Tây Bắc Bộ |
191 |
330 |
308 |
|
|
Tổng số |
18.942 |
20.295 |
21.895 |
|
|
Tăng trưởng (%) |
0,7 |
7,1 |
7,9 |
Bảng 3. Sản lượng TACN giai đoạn 2019-2021 theo loại hình doanh nghiệp và vật nuôi (1.000 tấn)
|
Loại hình DN/loại vật nuôi |
2019 |
2020 |
2021 |
|||
|
Sản lượng |
Tỷ lệ (%) |
Sản lượng |
Tỷ lệ (%) |
Sản lượng |
Tỷ lệ (%) |
|
|
DN FDI |
11,6 |
61,3 |
12,1 |
59,8 |
13,5 |
61,7 |
|
DN trong nước |
7,3 |
38,7 |
8,1 |
40,2 |
8,4 |
38,3 |
|
TACN cho lợn |
9,4 |
49,7 |
8,9 |
43,8 |
12,2 |
55,8 |
|
TACN cho gia cầm |
8,9 |
47,2 |
10,7 |
52,7 |
8,8 |
40,4 |
|
TACN cho vật nuôi khác |
0,6 |
2,9 |
0,6 |
3,0 |
0,9 |
3,8 |
|
Tổng |
18,9 |
|
20,3 |
|
21,9 |
|
Nguồn: Trích từ báo cáo của Cục Chăn nuôi
Tỷ trọng sản lượng TACN cho các loại vật nuôi trên thế giới là: 24,0% cho lợn, 42,0% cho gia cầm, 21,0% cho bò, 7,0% cho vật nuôi khác, 4,0% cho thủy sản và 2,0% cho thú cảnh. Như vậy, Việt Nam có cơ cấu sản lượng TACN cho lợn cao hơn so với thế giới và TACN cho bò thấp hơn so với thế giới.
- sản xuất TĂCN li> ul>
- Hiệu quả từ nuôi dúi và chồn hương ở vùng biên
- Hải Phòng kiểm soát chăn nuôi ven đô
- Lâm Đồng đẩy mạnh phòng, chống dịch bệnh động vật năm 2026
- Bí mật cấu trúc chi phí thức ăn chăn nuôi 2025: 5 chiến lược tối ưu lợi nhuận
- Aviagen – QPB đón lứa Arbor Acres ông bà thứ 60, đánh dấu sự hợp tác bền bỉ
- Mexico mở điều tra chống bán phá giá đối với thịt lợn nhập khẩu từ Mỹ
- Bệnh phó thương hàn trên heo: Nguy cơ bùng phát cao khi mưa bão
- Gia Lai: Hỗ trợ hơn 49 tỷ đồng mỗi năm cho công tác tiêm phòng, phòng chống dịch bệnh động vật
- Doanh nghiệp nuôi heo kỳ vọng hưởng lợi cuối năm?
- TP.HCM: Hỗ trợ tối đa 100 triệu đồng cho cơ sở chăn nuôi để xử lý chất thải
Tin mới nhất
T4,17/12/2025
- Hiệu quả từ nuôi dúi và chồn hương ở vùng biên
- Hải Phòng kiểm soát chăn nuôi ven đô
- Lâm Đồng đẩy mạnh phòng, chống dịch bệnh động vật năm 2026
- Bí mật cấu trúc chi phí thức ăn chăn nuôi 2025: 5 chiến lược tối ưu lợi nhuận
- Thúc đẩy sự phát triển ngành chăn nuôi – thú y tỉnh Hưng Yên
- Aviagen – QPB đón lứa Arbor Acres ông bà thứ 60, đánh dấu sự hợp tác bền bỉ
- Mexico mở điều tra chống bán phá giá đối với thịt lợn nhập khẩu từ Mỹ
- Bệnh phó thương hàn trên heo: Nguy cơ bùng phát cao khi mưa bão
- Petfair Vietnam Talk Series 2025 mở màn chuỗi hoạt động hướng tới Triển lãm quốc tế 2026
- Cải thiện chất lượng vỏ trứng ở gà mái đẻ: Lợi ích của Tecnoshell
- AChaupharm: Nấm phổi gia cầm, hiểm họa thầm lặng khi giao mùa
- Chuyên gia bàn giải pháp sử dụng kháng sinh có kiểm soát trong chăn nuôi
- Ngành sữa Việt Nam: Cơ hội “bứt phá” từ nội lực
- Dịch tả heo châu Phi: Hiện trạng và giải pháp kiểm soát hiệu quả (Phần 1)
- Bộ NN&MT mở đợt ‘truy quét’ việc lạm dụng chất kích tăng trưởng, tăng trọng
- Cargill rút khỏi ngành thức ăn thủy sản tại Việt Nam, đóng cửa nhà máy tại Đồng Tháp và Long An
- Chăn nuôi dê bền vững theo chuỗi giá trị: Chủ nhà hàng là mắt xích quan trọng
- Da khỏe, lông đẹp: Chiến lược dinh dưỡng hiệu quả cho heo con sau cai sữa
- Lo ngại bệnh than, Campuchia ngừng nhập một số sản phẩm từ Thái Lan
- Cạn tiền, một công ty tại Nam Phi phải tiêu hủy hơn 350.000 con gà






















Bình luận mới nhất