Khái niệm
Đất hiếm bao gồm các nguyên tố scandium (Sc-21), yttrium (Y-39), và lanthanides – lanthanum (La-57), cerium (Ce-58), praseodymium (Pr-59), neodymium (Nd-60), promethium (Pm-61), samarium (Sm-62), europium (Eu-63), gadolinium (Gd-64), terbium (Tb-65), dysprosium (Dy-66), holmium (Ho-67), erbium (Er-68), thulium (Tm-69), ytterbium (Yb-70), and lutetium (Lu-71).
Trong tự nhiên, đất hiếm có nhiều trong khoáng chất như bastnaesite và monazite. Đất hiếm chủ yếu được dùng trong công nghệ hiện đại từ điện thoại di động, bóng đèn huỳnh quang, máy tính, ti vi, thiết bị văn phòng và gia dụng, thiết bị y tế, xe hybrid, tua bin gió, kỹ thuật hạt nhân, thiết bị quân sự và thậm chí trong tàu vũ trụ. Hơn nữa, đất hiếm còn được sử dụng để điều trị chứng tăng phosphate huyết ở bệnh nhân suy thận mạn tính và điều trị bỏng…
Tương lai, trong số các ứng dụng khác, đất hiếm có thể tham gia vào liệu pháp điều trị ung thư, điều trị và phòng ngừa loãng xương và xơ vữa động mạch cũng như ghép tạng.
Trung Quốc hiện là nhà sản xuất và tiêu thụ nguyên tố đất hiếm lớn nhất thế giới. Đầu năm 2010 Trung Quốc chiếm hơn 95% sản lượng đất hiếm của thế giới mặc dù chỉ có hơn 1/3 các mỏ khoáng sản đất hiếm được biết đến trên thế giới. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã hạn chế xuất khẩu đất hiếm để đảm bảo nguồn cung cho sản xuất trong nước, vì vậy giá đất hiếm có lúc biến động mạnh về giá.
Đất hiếm được sử dụng trong chăn nuôi
Kháng sinh từng được sử dụng như là chất kích thích tăng trưởng và phòng bệnh cho vật nuôi ở nhiều nước trên thế giới trong gần nửa thế kỷ. Từ khi lệnh cấm sử dụng kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi được ban hành ở Châu Âu, các chất thay thế kháng sinh được đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển, bao gồm đất hiếm. Một số nghiên cứu rất sớm ở Đức và Thụy Sĩ năm 1999 chỉ ra rằng bổ sung đất hiếm vào thức ăn có thể làm tăng khối lượng cơ thể và cải thiện đáng kể hệ số chuyển hóa thức ăn ở vật nuôi.
Ngành phụ gia thức ăn chăn nuôi thường sử dụng các loại đất hiếm nhẹ (La, Ce, Pr, Nd) ở cả dạng vô cơ (nitrat, clorua…) và hữu cơ (ascorbates, citrate…), ở đó sản phẩm hữu cơ được đánh giá tốt hơn.
Đi đầu trong nghiên cứu đất hiếm trong lĩnh vực chăn nuôi là các nhà khoa học thuộc ĐH Munich, Viện Nghiên cứu Nông nghiệp tại Brunswick, ĐH Berlin, ETH Zurich,…
Ở heo, đất hiếm có thể cải thiện khối lượng cơ thể và chuyển đổi thức ăn đối với giống chất lượng cao được nuôi trong điều kiện tối ưu về chuồng trại và chế độ dinh dưỡng. Cụ thể là cải thiện 2-5% tăng khối lượng và 7% FCR ở lợn con (Rambeck & cs, 1999), cũng như cải thiện 12-19% khối lượng và 3-11% FCR ở heo giai đoạn vỗ béo (He & Rambeck, 2000; Rambeck & cs, 1999, He & cs, 2001; Borger, 2003). Ngoài ra, heo cho ăn đất hiếm sẽ tăng 8,8% khối lượng cơ thể sống, rút ngắn thời gian xuất chuồng 9 ngày (Kessler, 2004), cũng như giảm đáng kể FCR 7-9% trong giai đoạn 8-40 kg (Prause & cs, 2004) hoặc và tăng khối lượng 3,7-25% ở giai đoạn 8-30kg (Knebel, 2004). Tác dụng của đất hiếm không chỉ thể hiện ở qui mô thử nghiệm mà còn được khảo nghiệm ở qui mô đại trà.
Ở gà, đất hiếm có thể cải thiện 16-18% khối lượng cơ thể (Rosewell, 1995), tăng năng suất trứng khoảng 8% (Shen & cs, 1991), giảm 48% FCR (Guo & cs, 1993), tăng tỷ lệ sống 3-4% (Xiong, 1995). Ngoài ra, đất hiếm cũng đã được chứng minh hiệu quả trong nuôi trồng thủy sản (cải thiện đáng thể sản lượng và tỷ lệ sống của cá và tỷ lệ nở của trứng tôm).
Đất hiếm cũng đã được chứng minh không chỉ cải thiện một số tính trạng kinh tế ở vật nuôi mà còn được chứng minh về độ an toàn cho sức khỏe động vật trước khi được thương mại hóa ở các nước Châu Âu và Mỹ (Rambeck & cs, 1999; He & cs, 2001; Schuller & cs, 2002; Eisele, 2003; Knebel, 2004; Fleckenstein & cs, 2004; Miller, 2006; Meyer & cs, 2006; Durbin & cs, 1956; Ji & cs,1985; Evans, 1990; FairweatherTait & Dainty, 2002; Fiddler & cs., 2003).
Thực vậy, không có sự khác biệt về hàm lượng lantan giữa các phần thịt của heo được nuôi bổ sung lantan với heo đối chứng (Wang & Xu, 2003). Hơn nữa, chất lượng thịt gà nuôi bổ sung đất hiếm cũng được bảo toàn, vì không có sự tích lũy đáng kể của đất hiếm trong cơ hoặc gan gà thịt (Xie & Wang, 1998).
Nhìn chung, các nguyên tố đất hiếm được xem là các chất có tính độc hại rất thấp (Haley, 1979) và không nguy hiểm đối với sức khỏe con người thông qua các sản phẩm động vật. Vì vậy đất hiếm có thể xem như là nguồn tài nguyên giúp cải thiện năng suất và FCR ở vật nuôi trong điều kiện kháng sinh không được khuyến khích sử dụng.
PGS TS Đỗ Võ Anh Khoa, TS Cao Đình Thanh
(Hội Chăn nuôi Việt Nam)
TS Phan Thị Hồng Phúc, TS Trần Thị Hoan
(Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên)
Tình hình nghiên cứu đất hiếm ở Việt Nam
Việt Nam là một nước có nguồn tài nguyên đất hiếm lớn, nhưng chưa được khai thác và sử dụng hiệu quả trong công nghiệp và nông nghiệp. Gần đây, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã có những thành công bước đầu trong việc nghiên cứu và ứng dụng đất hiếm. VD: Bổ sung đất hiếm làm tăng 10% khối lượng ở gà thịt và dự kiến sẽ có nhiều khảo nghiệm trên các đối tượng vật nuôi khác nhau trong thời gian tới nhằm tăng năng suất và cải thiện hiệu quả chăn nuôi.
- đất hiếm li>
- năng suất vật nuôi li> ul>
- Quản lý CO₂, độ ẩm và thông gió trong ấp trứng – Yếu tố quyết định thành công
- Việt Nam tăng cường giám sát vi khuẩn Salmonella trên gà đẻ trứng
- Ứng dụng công nghệ mới trong công tác giống lợn: Xu thế và giải pháp
- 7 axit amin “vàng” trong thịt lợn nạc giúp tăng cơ bắp hiệu quả
- Tối ưu hiệu quả khô dầu đậu nành trong thức ăn chăn nuôi
- Đồng Nai: Ứng dụng tự động hóa trong nuôi vịt giúp tăng năng suất
- Tác động của độc tố nấm mốc trong thức ăn lên hệ miễn dịch gà: Cơ chế, biểu hiện và ảnh hưởng đến đáp ứng vaccine
- 7 lợi ích của việc sử dụng enzyme protease đối với gia cầm
- Ruồi và khí amoniac: Những tác động dây chuyền nguy hiểm trong chăn nuôi gia cầm
- Giải pháp bền vững kiểm soát tiêu chảy sau cai sữa ở heo con
Tin mới nhất
T6,05/12/2025
- Xuất khẩu thức ăn gia súc 10 tháng năm 2025 tăng 35,5%
- Quản lý CO₂, độ ẩm và thông gió trong ấp trứng – Yếu tố quyết định thành công
- Thanh Hóa: Giải pháp sạch, kinh tế và giảm phát thải khí mê-tan
- Cục Chăn nuôi và Thú y khảo sát thiệt hại ở Đắk Lắk sau bão lũ
- Việt Nam tăng cường giám sát vi khuẩn Salmonella trên gà đẻ trứng
- Sử dụng hormone trong chăn nuôi heo công nghiệp Ultratocin – Giải pháp vượt trội cho quản lý nái sinh sản
- Tăng cường chính sách hỗ trợ và tổ chức lại sản xuất giúp ngành chăn nuôi sớm phục hồi sau thiên tai
- Chuyên gia Châu Âu hoàn thành chương trình xúc tiến thức ăn chăn nuôi sấy khô tại Việt Nam
- Giá heo hơi hôm nay 5-12: Miền Bắc vượt ngưỡng 60.000 đồng/kg
- Thiếu hụt thú y cơ sở, người chăn nuôi thêm nỗi lo
- AChaupharm: Nấm phổi gia cầm, hiểm họa thầm lặng khi giao mùa
- Chuyên gia bàn giải pháp sử dụng kháng sinh có kiểm soát trong chăn nuôi
- Ngành sữa Việt Nam: Cơ hội “bứt phá” từ nội lực
- Dịch tả heo châu Phi: Hiện trạng và giải pháp kiểm soát hiệu quả (Phần 1)
- Bộ NN&MT mở đợt ‘truy quét’ việc lạm dụng chất kích tăng trưởng, tăng trọng
- Cargill rút khỏi ngành thức ăn thủy sản tại Việt Nam, đóng cửa nhà máy tại Đồng Tháp và Long An
- Chăn nuôi dê bền vững theo chuỗi giá trị: Chủ nhà hàng là mắt xích quan trọng
- Da khỏe, lông đẹp: Chiến lược dinh dưỡng hiệu quả cho heo con sau cai sữa
- Lo ngại bệnh than, Campuchia ngừng nhập một số sản phẩm từ Thái Lan
- Cạn tiền, một công ty tại Nam Phi phải tiêu hủy hơn 350.000 con gà























Bình luận mới nhất