Giảm tiêu chảy, đảm bảo tăng trưởng của heo con cai sữa với nguồn đạm thực vật tân tiến Nextide - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 67.000 - 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 64.000 - 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 67.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 66.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 63.000 - 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 66.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Trà Vinh 63.000 đ/kg
    •  
  • Giảm tiêu chảy, đảm bảo tăng trưởng của heo con cai sữa với nguồn đạm thực vật tân tiến Nextide

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Tổng 100 con heo cai sữa [Duroc x (Yorkshire x Landrace)] có trọng lượng trung bình 8.28 ± 0.97kg được nuôi thử nghiệm trong 5 tuần để xác định hiệu quả của Nextide (thương hiệu khô đậu nành lên men bằng Bacillus spp kết hợp với nucleotide (inosine monophosphate và hỗn hợp axit amin chức năng) lên tăng trưởng và sức khỏe đường ruột của heo con cai sữa. Heo được phân bổ ngẫu nhiên cho 2 nghiệm thức:

     

    1. Đối chứng (CON): Khẩu phần cơ bản.
    2. Thử nghiệm (TRT): Thay thế 5% khô đậu nành lên men trong khẩu phần đối chứng bằng 5% Nextide.

     

    Sau 5 tuần thử nghiệm, heo được cho ăn khẩu phần thử nghiệm đã tăng 13.80% trung bình trọng lượng cuối cùng, tăng 24.433% trung bình tăng trọng hàng ngày (ADFI), tăng 17.65% trung bình ăn vào hàng ngày và giảm 5.4% FCR. Heo trong giai đoạn cai sữa cho ăn khẩu phần có chứa Nextide giúp cải thiện cân nặng cuối cùng, tăng trọng trung bình hằng ngày, ăn vào hằng ngày và giảm tỷ lệ chuyển hóa thức ăn 5.5%. Điều này góp phần chứng minh khả năng sử dụng Nextide như nguồn đạm lý tưởng để cải thiện thành tích chăn nuôi của heo con.

    Giới thiệu

     

    Các nguồn protein có nguồn gốc từ động vật được sử dụng nhiều cho heo con sau cai sữa vì khả năng tiêu hóa cao của chúng (Kim& Easter, 2001; Gotlob và cs, 2006), tăng tính ngon miệng (Ermer và cs, 1994), và ít yếu tố kháng dưỡng (Anderson & Wolf, 1995) so với nguồn protein có nguồn gốc từ thực vật. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều quan ngại về tính an toàn của các nguồn đạm có nguồn gốc từ động vật cùng với các vấn đề không ổn định về nguồn cung cũng như chất lượng của nó.

     

    Nguồn đạm có nguồn gốc thực vật như khô đậu nành (SBM) là một trong những nguồn protein chính trong khẩu phần ăn của heo và có giá thành thấp hơn nguồn đạm có nguồn gốc từ động vật. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn đạm này còn nhiều hạn chế do có nhiều thành phần kháng dưỡng, làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa, hấp thụ và sử dụng chất dinh dưỡng (Hong và cs, 2004).

     

    Để khắc phục vấn đề này, các nguồn đạm nành cô đặc, khô đậu nành ép đùn và các sản phẩm khô đậu nành được xử lý bởi enzyme (Kim và cs, 2003,2006) đã được sử dụng trong khẩu phần ăn cho heo con để thay thế các nguồn khô đậu nành truyền thống. Trong số đó, khô đậu nành được lên men bởi vi khuẩn Bacillus sẽ có nhiều lợi ích như:

     

    • Nguồn đạm có độ tiêu hóa cao hơn nhờ hàm lượng cao các peptide trọng lượng phân tử thấp.
    • Hàm lượng đạm cao hơn so với khô đậu nành thông thường nhờ sự lên men carbohydrate.
    • Ít yếu tố kháng dưỡng (loại bỏ hoặc tối thiểu các chất ức chế trypsin, glycinin, β-conglycinin, raffinose và stachyose).
    • Tác dụng probiotic giúp cải thiện sức khỏe đường ruột heo con nhờ hạn chế sự xâm chiếm của mầm bệnh (Kiers và cs, 2003; Feng và cs, 2007).

     

    Heo con sau cai sữa sẽ phải đối mặt với rất nhiều thách thức từ việc tách mẹ, gộp đàn, di chuyển đến một môi trường mới, chuyển từ nguồn sữa mẹ có độ tiêu hóa và hàm lượng nucleotide cao (Mateo và cs, 2004) sang nguồn cám thương mại với khả năng tiêu hóa thấp hơn (Lalles, 2008). Một điểm cần nhấn mạnh là sự thiếu hụt nucleotide (Martinez-Puig và cs, 2007) làm giảm ăn vào và thành tích tăng trưởng (Salobir và cs, 2005; Kim và cs, 2010). Nucleotide được biết đến với chức năng ngăn ngừa stress oxi hóa (Salobir và cs, 2005), tiêu chảy (Martinez-Puig và cs, 2007) và nhu cầu về nucleotide tăng cao trong giai đoạn vật nuôi phát triển nhanh và bị stress (Carver & Walker, 1995, Frankič và cs, 2006).

     

    Gần đây, vai trò của các axit amin chức năng (FAA) trong việc tăng cường sức khỏe miễn dịch, duy trì hàng rào bảo vệ niêm mạc ruột, điều hòa chức năng chống oxi hóa và tổng hợp tế bào miễn dịch đã nhận được nhiều sự quan tâm (Le Floc’h và cs, 2018). Vì vậy, việc bổ sung các axit amin chức năng thiết yếu sẽ giúp giảm các tác động tiêu cực do các yếu tố gây stress gây ra. Bổ sung methionine, threonine và tryptophan ở hàm lượng cao hơn khuyến nghị sẽ giúp điều hòa tình trạng miễn dịch của heo choai bị nuôi trong điều  kiện vệ sinh kém (Van der Meer và cs, 2016) hoặc trong giai đoạn heo con sau cai sữa bị gây nhiễm vi khuẩn bệnh đường ruột như Salmonella (Rodrigues và cs, 2021).

     

    Từ những lợi ích trên, một sản phẩm kết hợp bởi khô đậu nành lên men từ vi khuẩn Bacillus, nucleotide và các axit amin chức năng nên được sử dụng ở khẩu phần ăn cho heo con để thay thế nguồn đạm truyền thống mà không làm ảnh hưởng thành tích tăng trưởng. Trong thử nghiệm này, Nextide – sản phẩm kết hợp giữa khô đậu nành được lên men bởi vi khuẩn Bacillus, nucleotide và các axit amin chức năng được đưa vào thử nghiệm để đánh giá hiệu quả của nó đến thành tích tăng trưởng của heo con sau cai sữa.

     

    Vật liệu và phương pháp nghiên cứu

     

    100 heo con sau cai sữa [Duroc x (Yorkshire x Landrace)] có trọng lượng trung bình 8.28 ± 0.97kg được chọn lọc cho thử nghiệm cho ăn trong 5 tuần. Heo được phân bổ ngẫu nhiên cho hai nghiệm thức với 50 con cho mỗi nghiệm thức. Hai nghiệm thức như sau:

     

    Nghiệm thức

    Khẩu phần

    Đối chứng (CON)

    Khẩu phần cơ bản.

    Thử nghiệm (TRT)

    Thay thế 5% khô đậu nành lên men trong khẩu phần đối chứng bằng 5% Nextide.

     

    Kết quả

     

    Thành tích tăng trưởng

     

    Thành tích tăng trưởng được thể hiện qua bảng 1. Sau 35 ngày cho ăn, heo cho ăn khẩu phần có Nextide có trọng lượng trung bình cuối cùng tăng 13.80%, tương ứng với 2.54kg, cao hơn so với heo ăn khẩu phần đối chứng. Heo cho ăn khẩu phần có Nextide cũng có tăng trọng trung bình hàng ngày cao hơn 24.433% và lượng ăn vào trung bình hàng ngày cao hơn 17.65%, so với heo cho ăn khẩu phần đối chứng. Kết quả thử nghiệm cũng cho thấy, FCR giảm 5.5% ở heo ăn khẩu phần Nextide so với khẩu phần đối chứng.

     

    Hình 1. Hiệu quả của Nextide đối với tăng trưởng của heo con sau cai sữa (5 tuần sau khi cho ăn thử nghiệm)

     

    Lợi ích kinh tế được đánh giá dựa trên chi phí thức ăn và tỷ lệ tăng trưởng (Bảng 1). Khẩu phần ăn Nextide mang lại thêm lợi nhuận là $4.04 so với khẩu phần cơ bản nhờ tỷ lệ tăng trưởng tốt hơn dù chi phí thức ăn có tăng lên.

     

    Bảng 1. Hiệu quả kinh tế của hai nghiệm thức căn cứ trên chi phí thức ăn và thành tích tăng trưởng

     

    Thảo luận


    Khô đậu nành là nguồn protein chính được sử dụng trong khẩu phần ăn của heo. Tuy nhiên, nguồn đạm này lại bị giới hạn sử dụng trong khẩu phần của heo con do có chứa nhiều thành phần kháng dưỡng chất và các protein kháng nguyên, những thành phần này sẽ ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa, hấp thụ và sử dụng chất dinh dưỡng (Holm và cs, 2004). Bột huyết tương, bột cá và đạm ruột heo thủy phân là những nguồn protein tốt hơn nhưng chi phí lại cao hơn. Vì vậy, thử nghiệm thức ăn thương mại được thực hiện để đánh giá hiệu quả của Nextide, dòng đạm đậu nành lên men vi khuẩn Bacillus, có bổ sung thêm nucleotide và các axit amin chức năng cho heo cai sữa, được tạo ra để trung hòa giữa giá trị mà đạm nguồn gốc động vật và đạm nguồn gốc thực vật đem lại cho vật nuôi.

     

    Nguồn khô đậu nành 48% đạm thô sau khi được lên men từ vi khuẩn Bacillus đã giúp tăng hàm lượng đạm thô lên 55% trong Nextide mà không ảnh hưởng đến hàm lượng các axit amin thiết yếu ở heo, quá trình lên men còn giúp tăng hàm lượng peptide trọng lượng phân tử thấp (<30 kDa) từ 20% trong bã nành lên lên 67.3% trong bã nành lên men bằng vi khuẩn Bacillus, điều này có lợi cho heo con mới cai sữa do khả năng bài tiết HCl bị hạn chế ở dạ dày mà HCl lại là tiền đề cần thiết giúp cho quá trình tiêu hóa protein.

     

    Nguồn đậu nành lên men từ vi khuẩn Bacillus cũng giúp giảm các yếu tố kháng dưỡng như glycinin và β-conglycinin bởi vì hầu hết các tiểu đơn vị cấu thành glycinin and β-conglycinin đều lớn hơn 20 kDa (Rickert và cs, 2004; Deak và cs, 2006). Glycinin and β-conglycinin là các hợp chất kháng nguyên và gây dị ứng tiềm ẩn trong khô đậu nành (Holzhauser và cs, 2009) cho heo con cai sữa, gây ra hiện tượng teo lông nhung mao và phì đại hốc tuyến ở ruột non (Li và cs, 1990); vì vậy, việc giảm glycinin and β-conglycinin trong khô đậu nành đem lại nhiều lợi ích cho heo con.

     

    Thêm vào đó, oligosaccharides ở trong đậu nành bao gồm stachyose và rafnose cũng là những nhân tố làm đầy hơi, bởi vì nó có thể không được tiêu hóa trong đường ruột vật nuôi và được lên men bởi hệ vi sinh vật đường ruột từ đó gây ra đầy hơi và tiêu chảy (Zhang và cs, 2003). Sự hiện diện của oligosaccharides ở trong đậu nành có thể làm giảm khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng vì nó tăng độ thẩm thấu trong đường ruột và tốc độ di chuyển của các chất dinh dưỡng qua đường ruột (Wiggins, 1984).

     

    Sự hiện diện của cả stachyose and rafnose trong khẩu phần cũng có thể gây ra rối loạn tiêu hóa ở heo con sau cai sữa, bởi heo con không thể sản xuất đủ enzyme nội sinh có khả năng tiêu hóa oligosaccharides cụ thể này (Veldman và cs, 1993). Người ta quan sát thấy rằng, việc bổ sung 1% stachyose tinh khiết cũng kích thích sự phát triển của vi khuẩn lactobacillus spp., tuy nhiên, khi tăng bổ sung lên 2% stachyose tinh khiết thì đã làm giảm đáng kể vi khuẩn lactobacteria và bifdobacteria trong đường ruột (Zhang và cs, 2003). Một nghiên cứu khác lại cho thấy, việc bổ sung stachyose ở hàm lượng 1% hoặc 2% đều làm giảm tốc độ tăng trưởng của heo con sau cai sữa. Smiricky và cs (2002) cũng chỉ ra rằng, bổ sung đậu nành hòa tan có hàm lượng cao rafnose và stachyose vào khẩu phần sử dụng nành cao đạm cũng làm giảm khả năng tiêu hóa Nitơ và axit amin ở heo choai. Hàm lượng khuyến nghị của galactooligosaccharides (stachyose+rafnose) trong đậu nành ở heo con cai sữa không quá 1% khi khô đậu nành được sử dụng như một nguồn protein chính (Choct và cs., 2010). Vì vậy, loại bỏ stachyose và rafnose bằng cách lên men bằng vi khuẩn Bacillus là một trong những cách hiệu quả để tăng giá trị dinh dưỡng của khô đậu nành. Bên cạnh đó hàm lượng chất ức chế trypsin trong khô đậu nành cũng có thể giảm sau khi được lên men (Hong và cs., 2004), điều này cũng có thể giúp cải thiện khả năng tiêu hóa protein trong ruột non. Mặc dù, không đo lường khả năng tiêu hóa dinh dưỡng hoặc độ nhầy đường ruột, nhưng giảm galacto-Oligosaccharides cũng phần nào đóng góp cải thiện thành tích chăn nuôi trong nhóm thử nghiệm.

     

    Trong giai đoạn sau cai sữa, hàm lượng protein không tiêu hóa được cao có thể làm heo con dễ bị tiêu chảy và tăng sự phát triển của các mầm bệnh trong đường ruột (Rist và cs, 2013). Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, 74% sự suy giảm về thành tích tăng trưởng là do nhiễm các mầm bệnh đường ruột, và dẫn đến sự suy giảm hiệu quả sử dụng thức ăn (ví dụ sử dụng dinh dưỡng) mà không phải là do giảm lượng ăn vào. Các nghiên cứu cũng đã chứng minh quá trình kích hoạt hệ miễn dịch đã yêu cầu một lượng nhiều hơn của một số axit amin cụ thể so với nhu cầu cho sự tăng trưởng, bao gồm methionine và cysteine (Litvak và cs, 2013; Rakhshandeh và cs, 2014), threonine (Jayaraman và cs, 2015; Wellington và cs, 2018), và tryptophan (Le Floc’h và cs, 2009; de Ridder và cs, 2012), điều này cho thấy sự cần thiết của việc bổ sung những axit amin chức năng này để giảm thiểu ảnh hưởng đến tăng trưởng trong giai đoạn vật nuôi dễ mắc bệnh. Wellington và cs (2019) báo cáo rằng, bổ sung threonine trong khẩu phần ở mức 20% cao hơn so với khuyến nghị cho thấy tăng trưởng đã được cải thiện thành tích ở heo 22kg.

     

    Tương tự với kết quả phân tích tổng hợp của Pastorelli và cs, (2012), đã chỉ ra rằng kích thích hệ miễn dịch sẽ làm tăng nhu cầu của threonine (Wellington và cs, 2018), methionine (Litvak và cs, 2013), and tryptophan (deRidder và cs, 2012) cho tăng trưởng. Gần đây, cả hàm lượng protein trong khẩu phần và việc bổ sung methionine, threonine và tryptophan đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc điều chỉnh trạng thái miễn dịch của heo choai nuôi trong điều kiện vệ sinh kém (Vander Meer và cs, 2016). Bổ sung các axit amin chức năng thiết yếu vào trong khẩu phần, đặc biệt là threonine, methionine và tryptophan trên mức khuyến nghị tăng trưởng cũng cải thiện thành tích tăng trưởng và trạng thái miễn dịch của heo khi bị nhiễm Salmonella Typhimurium (Rodrigues và cs, 2021). Từ những thông tin trên, có thể thấy rằng, tăng trưởng của heo con sau cai sữa trong thử nghiệm này một phần là do bổ sung thêm hỗn hợp axit amin chức năng đến từ Nextide sử dụng trong thức ăn heo nuôi thương mại, nơi mà vật nuôi luôn phải đối mặt với các nguy cơ về môi trường và vi khuẩn gây bệnh. Nucleotide là thành phần cấu tạo nên nhân tế bào, có trọng lượng phân tử thấp và đóng vai trò quan trọng trong nhiều quá trình sinh hóa trong cơ thể. Nó cần thiết cho quá trình tái tạo tế bào, đặc biệt đối với hệ miễn dịch và hệ tiêu hóa (Wang và cs, 2008).

     

    Trong điều kiện khỏe mạnh và nuôi trong điều điều kiện lý tưởng, việc bổ sung nucleotide vào khẩu phần không phải là yêu cầu thiết yếu, tuy nhiên, trong thực tế, heo con thường xuyên phải đối mặt với stress, dịch bệnh và lượng ăn bị ảnh hưởng, việc bổ sung nucleotide vào trong khẩu phần lại trở thành quan trọng và cần thiết (Dancey và cs, 2006). Thông thường, một lượng lớn nucleotide được tạo ra qua con đường tổng hợp mới (de novo synthesis), nhưng bổ sung nucleotide sẽ có nhiều lợi ích trong giai đoạn vật nuôi tăng trưởng nhanh hoặc stress (Carver & Walker, 1995; Frankič và cs, 2006). Trước cai sữa, heo con nhận được hàm lượng lớn nucleotide từ sữa heo mẹ (Mateo và cs, 2004). Tuy nhiên, khẩu phần ăn cho heo con sau cai sữa có thể thiếu hàm lượng nucleotide cần thiết cho tăng trưởng và sức khỏe. Lúc này, heo con không còn nhận được nguồn nucleotide từ sữa mẹ nhưng nhu cầu về nucleotide vẫn cao. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh nhu cầu nucleotide tăng trong giai đoạn stress và tăng trưởng nhanh như khi heo con sau cai sữa và chúng cần nucleotide cho việc duy trì tăng trưởng, phát triển đường ruột, hỗ trợ hệ miễn dịch và giảm stress oxi hóa (Mateo, 2005; Salobir và cs 2005; Sauer và cs, 2012). Weaver và Kim, (2014) cũng chỉ ra rằng, bổ sung nucleotide trong khẩu phần giúp cải thiện tăng trọng và lượng ăn vào của heo con mới cai sữa. Sử dụng nucleotide cũng giúp giảm viêm và stress oxi hóa thể hiện qua các chỉ số TNFα và 8-OHdG. Nucleotide cũng đóng vai trò hỗ trợ hệ miễn dịch thông qua sự tương tác với tế bào T và cuối cùng làm tăng lượng ăn vào và cải thiện tăng trưởng.

     

    Kết luận


    Heo con cho ăn khẩu phần có bổ sung Nextide, ở trại nuôi thương mại, do khẩu phần ăn cơ bản không có sử dụng đạm động vật nên khẩu phần ăn thử nghiệm chỉ có thể thay thế nguồn bã nành lên men khác bằng Nextide; tuy nhiên đã đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhờ kết quả trọng lượng cuối cùng tăng 13.8%, tăng trọng trung bình hàng ngày tăng 24.4%, lượng ăn vào trung bình hàng ngày tăng 17.6%, và FCR giảm 5.5%. Những kết quả tăng trưởng kể trên là sự kết hợp của nhiều thành phần có trong Nextide bao gồm:

     

    1. Khô đậu nành lên men bởi vi khuẩn Bacillus với hàm lượng peptide trọng lượng phân tử thấp cao nên dễ tiêu hóa, các yếu tố kháng dưỡng cũng được loại bỏ trong quá trình lên men và Bacillus, một nguồn lợi khuẩn còn tồn tại trong đậu nành lên men giúp giảm sự tăng sinh của hệ vi khuẩn gây bệnh.


    2. Các axit amin chức năng bổ sung cao hơn khuyến nghị giúp tăng cường miễn dịch niêm mạc, khả năng chống oxi hóa và ức chế tín hiệu tế bào báo viêm.

     

    3. Bổ sung nucleotide giúp tăng tái sản xuất tế bào niêm mạc.

     

    Do vậy, Nextide là một nguồn đạm phù hợp để thay thế cho các nguồn protein khác, đặc biệt là nguồn đạm động vật có giá thành cao như bột huyết tương, bột ruột heo thủy phân, bột cá cao đạm.

     

    TS. Nguyễn Đình HảiCJ BIO Việt Nam

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.