Sau dịch tả lợn châu Phi (ASF) và Covid - 19: Ngành thức ăn chăn nuôi Việt Nam cần làm gì? - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 67.000 - 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 69.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lào Cai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 64.000 - 68.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 64.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 67.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 66.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 63.000 - 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 67.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ 66.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Trà Vinh 63.000 đ/kg
    •  
  • Sau dịch tả lợn châu Phi (ASF) và Covid – 19: Ngành thức ăn chăn nuôi Việt Nam cần làm gì?

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Sự phát triển của sản xuất TĂCN gắn bó mật thiết với sự phát triển của ngành chăn nuôi. Ngành chăn nuôi Việt Nam phát triển theo hướng quy mô tập trung từ khoảng thập niên 90 và đang ngày càng phát triển với các đối tượng vật nuôi đa dạng từ các loài quen thuộc như lợn, gà, vịt, bò sữa, bò thịt; đến đối tượng dưới nước như các loại tôm, nhóm cá da trơn, nhóm cá có vảy, ếch và các loài nước mặn khác; cùng với một số vật nuôi trên cạn với số lượng ít hơn như dê thịt, dê sữa, chim cút, chim bồ câu, ngỗng, ngan (vịt xiêm)… 

     

    Hình 1 và 2. Dế nuôi tập trung được cho ăn kết hợp giữa các loại lá cây với thức ăn hỗn hợp hoặc chỉ cần thức ăn hỗn hợp thuần túy. Đã có trang trại nuôi dế quy mô lớn ở Bình Phước, đạt đến sản lượng khoảng 40 tấn dế tươi, tương đương 10 tấn dế sấy khô thành phẩm/tháng

     

    Những năm gần đây một số nhà máy sản xuất thức ăn còn sản xuất cả cho các đối tượng vật nuôi chuyên biệt hơn như thức ăn cho gà đá (gà chọi); thức ăn cho chim, cá cảnh; thức ăn cho đà điểu; thức ăn cho dế; thức ăn thay thế phấn hoa cho ong mật. Dễ hình dung là khi số lượng đầu vật nuôi tăng thì chắc chắn nhu cầu sản xuất TĂCN sẽ tăng theo khối lượng sản phẩm chăn nuôi được tạo ra, và cũng sẽ giảm tương ứng nếu như số lượng vật nuôi vì lý do nào đó bị suy giảm.

     

    Với ASF bùng phát ở Việt Nam từ năm 2019 và dịch Covid-19 ảnh hưởng trên người bắt đầu bùng phát dữ dội trên toàn thế giới trong hai năm 2020-2021, số đầu các loài vật nuôi trâu, bò, gia cầm (bao gồm gà, vịt, ngan) và thủy sản từ năm 2019-2023 ở Việt Nam đã không suy giảm qua các năm, nhưng với lợn lại có sự suy giảm số lượng rõ rệt trong thời kỳ 2018-2019, có tăng trưởng trở lại nhưng vẫn chưa đạt đến mức cao bằng với vài năm trước năm 2018 (Hình 3).

    Hình 3. Diễn biến số đầu vật nuôi của trâu, bò, lợn, gia cầm và sản lượng thu hoạch thủy sản từ 2015-2023 (Nguồn: Tổng cục Thống kê)

     

    Ngoài yếu tố chính tác động đến sản lượng sản xuất TĂCN là số lượng đầu vật nuôi vẫn đang ở mức tăng dần, liệu tính chất của ngành sản xuất thức ăn đã hoặc có những thay đổi ra sao? khi mà những năm vừa qua, ngoài dịch bệnh cũng có những tác động lớn xuất hiện với quy mô khu vực hoặc toàn cầu như: biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt, các cuộc xung đột khu vực mang tính địa chính trị, sự gia tăng dân số và thay đổi về mức sống, các tiến bộ kỹ thuật mang tính đột phá (ứng dụng kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo – AI) đã đem lại những thay đổi sâu rộng cho nhiều vùng, nhiều ngành nghề sản xuất khác nhau.

     

    Như vậy, trong phạm vi riêng của mình, ngành sản xuất TĂCN cũng như các đơn vị tham gia trong ngành cần chuẩn bị như thế nào để duy trì và tiếp tục phát triển?

     

    Lựa chọn quy mô và chủng loại sản phẩm TĂCN trong định hướng sản xuất ở nhà máy

     

    Không giống như ở một số quốc gia đã phát triển từ khá lâu, ngành chăn nuôi công nghiệp quy mô lớn thường mang tính chuyên biệt cao. Tại Việt Nam, do tính phân tán về địa lý và đa dạng về loài vật và mục đích chăn nuôi, nên các nhà máy được thiết kế với công suất hết sức đa dạng. Có những dây chuyền sản xuất tự động hóa cao với công suất 20- 30 tấn/mẻ, nhưng cũng có những dây chuyền sản xuất với công suất chỉ chừng 2-4 tấn/mẻ để thích ứng với các đơn hàng số lượng nhỏ cho từng vùng, từng loại vật nuôi hoặc từng mục đích chăn nuôi khác biệt.

     

    Mặt khác, với các đối tượng vật nuôi hết sức phong phú cùng nhu cầu đa dạng từ người nuôi và người tiêu dùng, các nhà máy/công ty sản xuất TĂCN cần đặc biệt quan tâm nếu như muốn mở rộng thị phần cho hầu hết hoặc tất cả các loại đối tượng vật nuôi và nhu cầu của người chăn nuôi, người tiêu dùng. Ví dụ, với nhóm gia cầm, chỉ riêng con gà sẽ phân ra các loại gà thịt, gà đẻ trứng ăn, gà đẻ trứng giống (để ấp nở); với gà thịt sẽ có ít nhất 3 nhóm phân theo sức tăng trưởng khác nhau là gà lông trắng; gà Tam Hoàng/Lương Phượng; gà ta lai. Trong nhóm gà ta lai, sẽ có các nhóm giống gà ta vàng (gà ri); gà xuất xứ từ Bình Định; gà có nhóm máu từ gà Bến Tre; gà lai nhóm máu gà Hồ, gà Mía, gà Đông Tảo và cả gà Tre rất nhẹ cân. Với các nhóm giống gà thịt khác nhau này sẽ cần đến thức ăn mang hàm lượng dưỡng chất trong từng giai đoạn nuôi cũng khác nhau. Nhu cầu người chăn nuôi sẽ đòi hỏi TĂCN sao cho da chân, da bụng gà đạt được những mức độ màu vàng khác nhau. Có nơi mong muốn màu vàng da chân gà thịt đạt điểm màu khoảng 4-5 theo quạt so màu; nhưng nhiều nơi yêu cầu mức này là 7-8, thậm chí nhiều nơi khác lại còn mong muốn điểm màu da chân gà phải đạt đến 12-13 trở lên…

     

    Yêu cầu đa dạng này cũng gần tương tự khi việc sản xuất thức ăn cho gà đẻ và vịt đẻ hay ở các loài, giống vật nuôi chưa có sự chuyên biệt hóa cao. Các đối tượng vật nuôi trong cùng loài, ví dụ như loài gà (Gallusgallus) nhưng khác nhau về dòng gà (cấp độ phân loại trong công tác giống thấp hơn cấp độ loài) sẽ có khả năng tiêu hóa dưỡng chất trong thức ăn khác nhau và nhu cầu dưỡng chất cho từng dòng gà ở cùng giai đoạn tuổi cũng sẽ khác nhau. Điều này dẫn đến việc lập công thức thức ăn cho từng loại sản phẩm thức ăn gà thịt hoặc các loại có bối cảnh tương tự sẽ cần đến các kiến thức chuyên sâu rất cụ thể cho từng nhóm giống, dòng gà; cũng như cần đến các cơ quan có sự phối hợp nghiên cứu để có thể cung cấp các thông số quan trọng về khả năng tiêu hóa dưỡng chất trong thức ăn, nhu cầu dưỡng chất phù hợp cho từng dòng gà chứ không thể chỉ nói chung chung là cho gà thịt hay cho gà đẻ là đủ. Tương tự như vậy, cho tất cả các loài vật nuôi còn mang tính địa phương nhiều.

     

    Như vậy, khả năng tổ chức sản xuất cùng với hệ thống phân phối linh hoạt để thích ứng với nhu cầu thị trường đa dạng sẽ là một trong những yếu tố khởi đầu cho sự tồn tại và phát triển tiếp theo của các đơn vị sản xuất TĂCN trong hiện tại và tương lai. Kèm theo đó là hiểu biết của tất cả nhân viên thị trường về kỹ thuật chăn nuôi, bao gồm cả về phòng và điều trị bệnh cho vật nuôi. Điều này sẽ góp phần giúp đơn vị sản xuất TĂCN có thể bao quát thị trường từ quy mô nhỏ lẻ đến mức độ tập trung quy mô lớn và rất lớn.

     

    Sử dụng các nguyên liệu thức ăn và chất bổ sung trong thức ăn hợp lý

     

    Theo thông tin từ Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam, trong 6 tháng đầu năm 2024, chỉ tính riêng 3 loại nông sản sử dụng phổ biến trong TĂCN thì Việt Nam đã nhập về hơn 3,1 triệu tấn lúa mì; gần 4,85 triệu tấn ngô (bắp) và hơn 1 triệu tấn khô đậu tương (khô dầu đậu nành). Giả sử 6 tháng cuối năm 2024, con số nhập 3 loại nông sản này cũng tương đương như của 6 tháng đầu năm thì tổng cộng trong năm đã nhập về gần 18 triệu tấn. Nếu như tổng lượng TĂCN sản xuất ở Việt Nam năm 2024 là 27,7 triệu tấn (gồm cả thức ăn thủy sản) theo ước tính của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ thì chúng ta đã phải nhập về (18/27.7) x 100 = 65% các nguyên liệu cần thiết để sản xuất TĂCN, đó là chưa tính một số nguyên liệu khác như bột thịt xương, bột lông vũ, khô dầu cải… và các nguyên liệu thức ăn bổ sung cũng phải nhập khẩu.

     

    Các con số trên cho thấy, mỗi đơn vị sản xuất TĂCN cần có chủ động, linh hoạt tùy theo điều kiện của từng đơn vị để đảm bảo cho riêng mình nguồn cung ứng các nguyên liệu nhập nội. Đồng thời, tìm kiếm và vận dụng đúng mức các nguồn nguyên liệu có nguồn gốc tại chỗ với giá phù hợp mới có thể cung ứng ra thị trường đủ số lượng sản phẩm TĂCN theo nhu cầu thị trường có chất lượng tốt và ổn định, cả về các chỉ tiêu dinh dưỡng và cảm quan.

     

    Một trong các điểm yếu và thiếu ở nhiều đơn vị sản xuất TĂCN cho đến nay là các nhân sự phụ trách kỹ thuật có đủ tâm (đạo đức nghề nghiệp) và tầm (kiến thức kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất TĂCN để làm được các công việc quan trọng như thiết lập công thức thức ăn chuẩn xác và làm tốt công tác kiểm soát chất lượng cũng như quản lý chất lượng đầy đủ bài bản). Chuyên viên phụ trách thu mua, nhất là với các nguyên liệu mang tính chiến lược cần có hiểu biết về diễn biến giá cả thị trường trong và ngoài nước. Từ đó, cần có quyền hạn và trách nhiệm để thực hiện nhiệm vụ giao dịch thương mại chuẩn xác cả về tính chất, số lượng nguyên liệu thức ăn cần thiết, lẫn giá cả hợp lý nhất có thể được.

     

    Các đơn vị sản xuất TĂCN ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai ngắn và trung hạn, vẫn sẽ cần đến bộ phận các nhân viên thương mại làm công việc giao dịch, phân phối hàng hóa là sản phẩm TĂCN đến trại nuôi và/hoặc đến đại lý phân phối ở những nơi chăn nuôi còn phân tán, ít tập trung. Tùy tính chất, quy mô của đơn vị sản xuất TĂCN mà có thể có riêng 2 bộ phận nhân viên thương mại cùng với nhân viên kỹ thuật hỗ trợ thị trường hoặc chỉ có 1 bộ phận nhân viên chung cho cả công việc thương mại lẫn hỗ trợ kỹ thuật.

     

    Xu hướng chung là ngày càng có nhiều trại chăn nuôi tập trung quy mô lớn hơn là các trại chăn nuôi nhỏ lẻ và ngày càng ít đi các hộ chăn nuôi kết hợp trồng trọt, làm vườn. Một khi xu hướng này ngày càng tăng cũng là lúc số lượng các nhân viên của đơn vị sản xuất TĂCN làm việc bên ngoài nhà máy sẽ càng giảm bớt, thay vào đó sẽ cần đội ngũ các nhân viên thị trường hiện đại hơn theo các nghĩa: có thể tự lái xe 4 bánh để đi lại liên tục trong phạm vi vài trăm km hàng ngày; có khả năng giao tiếp tốt để gặp gỡ khách hàng đại lý hoặc chủ trại nuôi. Đồng thời, phải có các hiểu biết kỹ thuật chăn nuôi, phòng trị bệnh với ít nhất một loài vật nuôi tương ứng với sản phẩm TĂCN liên quan, cũng như khả năng thường xuyên tự đào tạo, cập nhật các thông tin khoa học kỹ thuật mới trong phạm vi nghề nghiệp. Đây là xu hướng đã bắt đầu hình thành ở thị trường, nhưng có vẻ như tại các trường đại học và cả trung cấp chuyên nghiệp có đào tạo ngành chăn nuôi hoặc ngành thú y chưa cảm nhận rõ ràng và/hoặc chưa có những động thái rõ rệt kết hợp với các đơn vị sản xuất TĂCN xúc tiến chuyển đổi nội dung, phương thức đào tạo cho thật sự phù hợp với xu hướng và nhu cầu mới này.

     

    Ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo


    Không chỉ cạnh tranh giữa các đơn vị sản xuất TĂCN với nhau mà bản thân ngành sản xuất TĂCN cũng phải thường xuyên đối đầu với sự cạnh tranh, ví dụ về nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, các chính sách ưu đãi chung,… giữa các ngành sản xuất kinh tế trong xã hội với nhau. Để có được lợi thế không cách nào khác là đơn vị sản xuất TĂCN phải tự vận dụng, huy động tối đa sự hỗ trợ của kỹ thuật, với công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo là các nhân tố chủ chốt, để tạo ra các giá trị tốt hơn, chi phí hợp lý hơn, từ đó tạo ra giá trị thặng dư ngày càng tốt đẹp hơn, vừa phục vụ cho xã hội vừa tạo thêm nguồn lực cho chính mỗi đơn vị trong cuộc chạy đua không ngừng nghỉ. Như vậy, không chỉ quản lý cấp cao, mà hệ thống nhân viên trong mỗi doanh nghiệp sản xuất TĂCN cũng cần được trang bị các kiến thức thiết yếu về lĩnh vực mới này theo hướng thấy và vận dụng được những lợi ích của kỹ thuật số cho công việc chuyên môn theo đặc thù của lĩnh vực sản xuất TĂCN.

     

    Trước đây ngành chăn nuôi quan tâm nhiều nhất đến năng suất chăn nuôi khi sử dụng TĂCN thì hiện nay và trong tương lai, ngoài năng suất chăn nuôi người nuôi đã bắt đầu có thêm những yêu cầu về một số chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm chăn nuôi. Do vậy, cùng với sự biến động của tự nhiên và xã hội, các đơn vị sản xuất cũng như toàn ngành sản xuất TĂCN cần nhận rõ những yêu cầu này để sớm hoạch định các chiến lược và giải pháp thích hợp cho từng vấn đề đã và sẽ xuất hiện, từ đó tạo ra nhiều khả năng tồn tại và phát triển tốt đẹp hơn. 

    TS. Dương Duy Đồng
    E-mail: [email protected]

     

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.