Kiểm soát hội chứng lứa 2 để nâng cao năng suất sinh sản (Phần 2) - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi  Vĩnh Phúc 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 55.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng, Bình Thuận 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 59.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bến Tre 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Kiên Giang 59.000 đ/kg
    •  
  • Kiểm soát hội chứng lứa 2 để nâng cao năng suất sinh sản (Phần 2)

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Altrenogest là Progesterone dạng hoạt động được cấp qua đường uống và cơ chế hoạt động giống với Progesterone tự nhiên giúp ngăn cản hoặc ức chế sự động dục của nái.

     

     

    Altrenogest được cung cấp qua đường miệng giúp ngăn cản hoặc ức chế chu kỳ động dục và giới hạn biểu hiện lên giống cũng như sự rụng trứng. Khi dừng việc cung cấp Altrenogest, sự phóng thích các hormone tự nhiên sẽ tự động diễn ra. Vùng dưới đồi phóng thích hormone GnRH, tuyến yên phóng thích hormone FSH và LH cho nên nái trở lại động dục một cách tự nhiên. Cần phải hiểu rõ rằng, Altrenogest không có chức năng gây ra sự động dục trên nái mà nó ngăn cản/ức chế sự động dục của nái trong suốt quá trình bổ sung Altrenogest; vì thế, chu kỳ động dục của nái sẽ khởi động trở lại sau khi ngưng dùng Altrenogest.

     

    Tầm quan trọng của số ngày nái lên giống sau khi cai sữa.

     

    Thời gian lên giống sau cai sữa bị kéo dài được xem là một trong những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản tại trại (biểu đồ 01 và 02), cho nên nái có thời gian lên giống từ:

     

    • 3 – 6 ngày sau khi cai sữa được xem là nhóm có năng suất sinh sản tốt nhất cả về tỷ lệ đẻ và tổng số con sinh ra.
    • 7 – 10 ngày sau khi cai sữa thường là nhóm có năng suất kém nhất tại trại.

    Biểu đồ 1: Ảnh hưởng của số ngày lên giống sau cai sữa đến tỷ lệ đẻ

    Biểu đồ 2: Ảnh hưởng của số ngày lên giống sau cai sữa đến tổng số con sinh ra

     

    Altrenogest được dùng như thế nào?

     

    Việc sử dụng Altrenogest lúc cai sữa có hiệu quả cho cả nái vừa mới kết thúc chu kỳ nuôi con lần đầu tiên và cho cả những nái có thể trạng kém lúc cai sữa ở bất kỳ lứa đẻ nào. Altrenogest cho phép:

     

    • Ức chế sự động dục của nái trong vài ngày để giúp nái có thời gian hồi phục thể trạng
    • Giúp nái chuyển đổi trạng thái thể chất từ dị hóa sang đồng hóa
    • Đủ thời gian hoàn thiện hệ niệu dục
    • Giảm tỷ lệ nái không lên giống
    • Cải thiện năng suất sinh sản của lứa sau

     

    Quy trình sử dụng

     

    Mặc dù trước đây Altrenogest được khuyến cáo bắt đầu sử dụng đúng vào ngày nái cai sữa, tuy nhiên ngày nay được nhiều khuyến cáo nên bắt đầu sử dụng từ 01 ngày trước khi bắt đầu cai sữa – không bao giờ sử dụng sau ngày cai sữa. Đề xuất sử dụng được nêu rõ ở biểu đồ 03.

     

    Nếu thực hiện việc so sánh với phương pháp truyền thống – bỏ qua chu kỳ lên giống đầu tiên sau khi cai sữa – chúng ta có thể thấy phương pháp mới – sử dụng Altrenogest trong 11 hay 12 ngày sau cai sữa – giúp làm giảm được 15 ngày không sản xuất (NPD) so với 26 ngày không sản xuất (NPD).

     

    Biểu đồ 03: Quy trình sử dụng Altrenogest cho những nái có thể trạng kém khi cai sữa lứa đầu tiên

    Hai ngày trước khi cai sữa, cần phân loại nái cai sữa lứa đầu tiên và những nái có thể trạng gầy ở tất cả các lứa đẻ. Ngày sau đó – 01 ngày trước khi cai sữa – Altrenogest bắt đầu được cấp cho nhóm này. Altrenogest cũng được cho ăn vào ngày cai sữa và những nái này cũng áp dụng quy trình tương tự như những nái còn lại bao gồm quy trình cai sữa, khu vực chuồng nuôi, nguồn dinh dưỡng kể cả việc cho ăn tự do (flushing) và sử dụng cám nuôi con.

     

    Altrenogest được tiếp tục cho ăn thêm 06 ngày sau khi cai sữa đảm bảo tổng ngày sử dụng Altrenogest là 08 ngày (01 ngày trước khi cai sữa + ngày cai sữa + 06 ngày sau cai sữa). Theo quy trình này thì ngày cuối cùng sử dụng Altrenogest là 01 ngày trước khi cai sữa nhóm nái kế tiếp theo quy trình thông thường của trại. Bởi vì, những nái sử dụng Altrenogest sẽ tự động lên giống sau khi ngừng sử dụng Altrenogest được 04 – 05 ngày tương ứng với nhóm nái cai sữa thông thường. Những nái được hỗ trợ điều trị bằng Altrenogest sẽ được xếp chung vào nhóm nái sản xuất kế tiếp.

     

    Nếu phương pháp này được áp dụng đều đặn thì số lương nái phối theo tuần sẽ không bị giảm (ngoại trừ nhóm đầu tiên khi bắt đầu áp dụng) bởi vì mỗi tuần đều có một số nái sẽ được chuyển qua nhóm phối kế tiếp, và chính bản thân của nhóm phối này cũng sẽ nhận những nái từ nhóm trước đó chuyển sang. Vì thế, số lượng nái phối hầu như sẽ được duy trì ổn định và chuỗi năng suất sẽ không bị ảnh hưởng.

     

     

    Biểu đồ 04: Kết quả của việc sử dụng Altrenogest trên nái lứa 02 ngày sau trong vòng 07 ngày cai sữa đối với tỷ lệ đậu thai

     

    Biểu đồ 05: Kết quả của việc sử dụng Altrenogest trên nái lứa 02 ngày sau trong vòng 07 ngày cai sữa đối với tổng số con sinh ra

    Biểu đồ 06: Kết quả của việc sử dụng Altrenogest trên nái lứa 02 ngày sau trong vòng 07 ngày cai sữa đối với số ngày không sản xuất.

     

    Nguồn thông tin: C. Pereida et al. IPVS Cancún (Mexico) 2012. Được thực hiện tại trại 1,850 nái

     

    Nghiên cứu:

     

    Tại IPVS 2012, Pereida và cộng sự đã mang đến những điều có giá trị về việc sử dụng Altrenogest trên nhóm nái cai sữa lứa 01 trong vòng 07 ngày từ khi cai sữa và sự cải thiện năng suất trên những nái này ở lứa 02 được thể hiện ở biểu đồ số 04, 05 và 06:

     

    • Tỷ lệ đẻ cải thiện từ 80,7% lên 90%
    • Tổng số con sinh ra tăng trung bình 0,3 con/lứa
    • Số ngày không sản xuất giảm được 24,5 ngày: từ 79,3 ngày xuống còn 54,8 ngày

     

    Việc giảm số ngày không sản xuất và tăng năng suất sinh sản (tỷ lệ đẻ và số con sinh ra) rõ ràng đã bù lại phần chi phí trong việc sử dụng Altrenogest.

     

    Dĩ nhiên, để hạn chế sự suy giảm thể trạng của nái, chiến lược gia tăng lượng ăn cho nái trong giai đoạn nuôi con cần được áp dụng bao gồm:

     

    • Làm mát chuồng nuôi
    • Tập cho nái đứng lên thường xuyên
    • Vệ sinh máng ăn hàng ngày
    • Sử dụng thức ăn đậm đặc và cho ăn nhiều lần trong ngày
    • Tránh tình trạng thức ăn bị lên men (nhiệt độ cao trong chuồng nuôi con dễ làm thức ăn lên men)
    • Cho uống nước tự do, bổ sung nước uống
    • Tốc độ nước uống hợp lý (tối thiểu 2 lít/phút)

     

    Virbac Team

    http://www.repropigdigitalmagazine.com/EN/Repropig4/assets/resources/Second_parity_syndrome.pdf

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.