Bản tin thị trường thịt thế giới và trong nước tháng 1.2025 - Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 72.000 - 74.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội 72.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Yên Bái 73.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hải Dương 74.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 71.000 - 78.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 71.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 73.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng 78.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Ninh Thuận 77.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 77.000 - 79.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 77.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Cần Thơ, Kiêng Giang 79.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hậu Giang 78.000 đ/kg
    •  
  • Bản tin thị trường thịt thế giới và trong nước tháng 1.2025

    Theo số liệu từ Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu 6,47 triệu tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 22,76 tỷ USD, giảm 10% về lượng và giảm 14,8% về trị giá so với năm 2023.Năm 2024, sản lượng lợn của Thái Lan đạt 21,723 triệu con, tăng 6,19% so với 20,456 triệu con trong năm 2023. Năm 2024, xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam tăng 8% về lượng và tăng 6,1% về trị giá so với năm 2023; Nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt, tăng 15,2% về lượng và tăng 18,1% về trị giá so với năm 2023.

     

    THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI

     

    Theo số liệu từ Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu 6,47 triệu tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 22,76 tỷ USD, giảm 10% về lượng và giảm 14,8% về trị giá so với năm 2023; chủ yếu nhập khẩu từ Bra-xin, Hoa Kỳ, Ác-hen-ti-na, Tây Ban Nha, Úc, Niu Di-Lân, Tây Ban Nha… Trong đó, chỉ có riêng lượng nhập khẩu thịt từ Ác-hen-ti-na tăng 6,9%, còn nhập khẩu từ các thị trường còn lại đều giảm so với năm 2023. Cụ thể:

     

     

    * Thịt trâu, bò: Trong năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu 2,8 triệu tấn thịt trâu, bò (HS 0201; 0202), trị giá 13,69 tỷ USD, tăng 5% về lượng nhưng giảm 3,7% về trị giá so với năm 2023, chủ yếu nhập khẩu từ Bra-xin, Ác-hen-ti-na, U-ru-goay, Úc, Hoa Kỳ, Niu Di-Lân,… Trong đó, lượng thịt trâu, bò nhập khẩu của Trung Quốc từ các thị trường Bra-xin, Ác-hen-ti-na tăng, còn lại đều giảm so với năm 2023.

     

    * Thịt gia cầm: Năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu 942,7 nghìn tấn thịt và phụ phẩm của gia cầm (HS 0207), với trị giá 2,94 tỷ USD, giảm 27,3% về lượng và giảm 29,4% về trị giá so với năm 2023, chủ yếu nhập khẩu từ Bra-xin, Nga, Thái Lan, Hoa Kỳ, Bê-la-rút… Lượng thịt và phụ phẩm gia cầm nhập khẩu của Trung Quốc từ các thị trường này đều giảm so với năm 2023.

     

    * Thịt lợn: Lượng thịt lợn nhập khẩu của Trung Quốc giảm mạnh trong năm 2024. Theo số liệu của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu 1,05 triệu tấn thịt lợn (HS 0203), với trị giá 2,09 tỷ USD, giảm 31,8% về lượng và giảm 39,9% về trị giá so với năm 2023. Các thị trường cung cấp thịt lợn lớn nhất cho Trung Quốc trong năm 2024 gồm: Tây Ban Nha, Bra-xin, Hà Lan, Chi-lê, Ca-na-đa, Hoa Kỳ, Đan Mạch, Anh… Lượng thịt lợn nhập khẩu của Trung Quốc từ các thị trường này đều giảm mạnh so với năm 2023.

     

    + Sản lượng lợn của Thái Lan năm 2024 và dự báo năm 2025: Năm 2024, sản lượng lợn của Thái Lan đạt 21,723 triệu con, tăng 6,19% so với năm 2023 (20,456 triệu con). Nguyên nhân chủ yếu là do Thái Lan đã phục hồi sau dịch tả lợn châu Phi (ASF) dẫn đến số lượng lợn nái và lợn thịt tăng. Năm 2025, sản lượng lợn dự kiến sẽ giảm 1,63% do các biện pháp của chính phủ nhằm giảm năng lực sản xuất để ổn định giá lợn, bằng cách yêu cầu các trại chăn nuôi lớn hợp tác để giảm số lượng heo nái.

     

    Năm 2024, Thái Lan xuất khẩu 53.000 con lợn giống, trị giá 303 triệu Baht, tăng 10,82% về lượng so với năm 2023 (47.827 con), trong khi trị giá giảm 23,95% so với năm 2023 (399 triệu Baht). Năm 2024, Thái Lan xuất khẩu 108.000 con lợn sống, trị giá 490 triệu baht, tăng 31,94% về lượng so với năm 2023 (81.858 con) và tăng 28,71% về giá trị so với năm 2023 (380 triệu Baht).

    Trong năm 2024, Thái Lan đã xuất khẩu 2.140 tấn thịt lợn làm mát và đông lạnh, trị giá 220 triệu Baht, tăng 8,88% về lượng so với năm 2023 (1.965 tấn), nhưng trị giá giảm 14,63% so với năm 2023 (258 triệu Bbaht). Các thị trường xuất khẩu chính là Hồng Công, Mi-an-ma và Lào. Năm 2024, Thái Lan đã xuất khẩu 4.780 tấn thịt lợn đã qua chế biến, trị giá 1.065 triệu Baht, tăng 19,81% về lượng (3.990 tấn) và tăng 13,38% về giá trị (939 triệu Baht) so với năm 2023. Các thị trường xuất khẩu chính là Nhật Bản, Căm-pu-chia, Hồng Công và Lào. Tổng khối lượng xuất khẩu tăng do hệ thống an toàn sinh học được thắt chặt, dẫn đến các sản phẩm thịt lợn của Thái Lan có chất lượng chấp nhận được.

     

    Dự kiến đến năm 2025, xuất khẩu lợn hơi, thịt lợn làm mát, đông lạnh và thịt lợn đã qua chế biến sẽ tăng nhẹ so với năm 2024 do kinh tế phục hồi, các đối tác thương mại tin tưởng vào tiêu chuẩn sản phẩm chăn nuôi của Thái Lan, cùng với chính sách thúc đẩy xuất khẩu thịt lợn ra nước ngoài của chính phủ.

     

    Năm 2024, Thái Lan nhập khẩu 274 tấn sản phẩm thịt lợn, trị giá 94 triệu Baht, tăng 24,9% về lượng so với năm 2023 (2.220 tấn) và tăng 19,17% về trị giá so với năm 2023 (79 triệu Baht). Các sản phẩm này được nhập khẩu từ các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu, cụ thể là Tây Ban Nha, Pháp và Đan Mạch. Năm 2024, Thái Lan nhập khẩu 10.890 tấn các phần ăn được khác của lợn (da, gan và các bộ phận nội tạng khác), trị giá 155 triệu Baht, giảm 49,2% về lượng so với năm 2023 (21.437 tấn) và giảm 55,8% về trị giá so với năm 2023 (351 triệu Baht). Các mặt hàng này được nhập khẩu từ Tây Ban Nha. Năm 2025, dự kiến nhập khẩu các sản phẩm thịt lợn và các phần ăn được khác của lợn vào Thái Lan sẽ tương tự như năm 2024.

     

    THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC

     

    Năm 2024, ngành chăn nuôi bảo đảm nguồn cung cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Trong đó, chăn nuôi nông hộ, nhỏ lẻ giảm và chuyển dần sang chăn nuôi tập trung, quy mô trang trại; liên kết sản xuất giữa các nông hộ hoặc giữa nông hộ với doanh nghiệp ngày càng được quan tâm.

    Trong đó, chăn nuôi gia súc, gia cầm theo chuỗi giá trị, chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh và việc ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao trong chăn nuôi được thúc đẩy; mô hình chăn nuôi theo hướng hữu cơ bước đầu đạt hiệu quả kinh tế cao đang dần được phổ biến, nhân rộng. Nhờ đó sản xuất chăn nuôi được duy trì phát triển tốt, tổng đàn vật nuôi chính đều tăng, ngoại trừ đàn trâu và bò giảm do diện tích chăn thả thu hẹp, nhu cầu về sức kéo giảm mạnh và hiệu quả kinh tế không cao.

     

    Trong tháng 01/2025, giá lợn hơi trên cả nước tăng so với tháng 12/2024, giá khảo sát ở các tỉnh, thành phố dao động trong khoảng 68.000 – 70.000 đồng/kg. Cụ thể: Giá lợn hơi tại khu vực miền Bắc dao động trong khoảng 69.000 – 70.000 đồng/kg, những ngày đầu tháng 01/2025 giá tăng 4.000 – 6.000 đồng/kg, đến giữa tháng tiếp tục tăng 3.000 – 5.000 đồng/kg, những ngày cuối tháng tiếp tục tăng từ 1.000 – 3.000 đồng/kg so với cuối tháng 12/2024.

     

    Giá lợn hơi tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên dao động trong khoảng 68.000 – 69.000 đồng/kg, trong những ngày đầu tháng 01/2025 giá lợn hơi tăng từ 5.000 – 6.000 đồng/kg, đến giữa tháng tăng thêm từ 2.000 – 5.000 đồng/kg. Giá lợn hơi tại khu vực miền Nam ở mức 69.000 đồng/kg, những ngày đầu tháng giá lợn hơi tăng 5.000 đồng/kg, sau tiếp tục tăng 3.000 – 5.000 đồng/kg so với những ngày giữa tháng trước, giá lợn hơi những ngày cuối tháng 01/2025 tăng từ 2.000 – 3.000 đồng/kg so với những ngày cuối tháng 12/2024.

     

    TÌNH HÌNH XUẤT, NHẬP KHẨU THỊT VÀ CÁC SẢN PHẨM TỪ THỊT CỦA VIỆT NAM

     

    + Tình hình xuất khẩu: Theo thống kê sơ bộ từ số liệu của Tổng cục Hải quan, năm 2024, Việt Nam xuất khẩu 24,5 nghìn tấn thịt và các sản phẩm thịt, trị giá 117,02 triệu USD, tăng 8% về lượng và tăng 6,1% về trị giá so với năm 2023.

     

    Trong năm 2024, thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam được xuất khẩu tới 37 thị trường, trong đó Hồng Công vẫn là thị trường xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt lớn nhất của Việt Nam, chiếm 50,65% về lượng và chiếm 59,59% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của cả nước, với lượng đạt xấp xỉ 12,3 nghìn tấn, trị giá 69,73 triệu USD, tăng 27,6% về lượng và tăng 16,1% về trị giá so với năm 2023.

     

    Trong đó sản phẩm thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam được xuất khẩu sang thị trường Hồng Công chủ yếu vẫn là thịt lợn sữa nguyên con đông lạnh và thịt lợn nguyên con đông lạnh. Trong năm 2024, xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt tới một số thị trường đạt mức tăng trưởng tốt cả về lượng và trị giá so với năm 2023 như: Bỉ, Pháp, Lào, Xin-ga-po. Tuy nhiên, xuất khẩu giảm cả về lượng và trị giá tới một số thị trường như: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ca-na-đa, Ma-lai-xi-a, Căm-pu-chia, Nhật Bản, Hà Lan, Hàn Quốc…

     

    Năm 2024, xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam chủ yếu gồm các chủng loại như: thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 39,15% về lượng và chiếm 50,32% về trị giá; Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 28,91% về lượng và chiếm 25,76% về trị giá; Thịt khác và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ của động vật khác tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 28,95% về lượng và chiếm 21,99% về trị giá; Các chủng loại khác chiếm 2,99% về lượng và chiếm 1,94% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam năm 2024.

     

    Thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh vẫn là chủng loại được xuất khẩu nhiều nhất, với lượng đạt 9,4 nghìn tấn, trị giá 58,88 triệu USD, giảm 11,9% về lượng và giảm 7,1% về trị giá so với năm 2023. Trong đó, xuất khẩu tới thị trường chủ yếu là Hồng Công giảm 9,1% về lượng và giảm 6,5% về trị giá so với năm 2023, tuy nhiên xuất khẩu sang các thị trường như Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po vẫn tăng trưởng tốt.

     

    + Tình hình nhập khẩu: Theo thống kê sơ bộ từ số liệu của Tổng cục Hải quan, trong năm 2024, Việt Nam nhập khẩu 876,67 nghìn tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 1,78 tỷ USD, tăng 15,2% về lượng và tăng 18,1% về trị giá so với năm 2023.

    Trong năm 2024, Ấn Độ vẫn là thị trường cung cấp thịt và các sản phẩm từ thịt lớn nhất cho Việt Nam, chiếm 22,14% trong tổng lượng thịt và các sản phẩm từ thịt nhập khẩu của cả nước, với 194,06 nghìn tấn, trị giá 644,91 triệu USD, tăng 9,9% về lượng và tăng 23% về trị giá so với năm 2023.

     

    Nhập khẩu thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam từ nhiều thị trường trong năm 2024 tiếp tục tăng trưởng cả về lượng và trị giá so với năm 2023 như: Hoa Kỳ, Úc, Ca-na-đa, Ba Lan, Hàn Quốc, Hà Lan, Ác-hen-ti-na, Hồng Công, I-ran, Ý, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ, Bỉ, Niu-Di-Lân, Pháp, Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất… Tuy nhiên, nhập khẩu thịt và các sản phẩm thịt về Việt Nam năm 2024 vẫn giảm từ một số thị trường lớn như: Nga, Bra-xin, Tây Ban Nha, Đan Mạch.

     

    Trong năm 2024, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu các chủng loại thịt gồm: thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh; Thịt trâu tươi đông lạnh; Phụ phẩm ăn được sau giết mổ của lợn, trâu, bò sống ướp lạnh hoặc đông lạnh; Thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh; Thịt bò tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh…

    Trong đó, lượng nhập khẩu các chủng loại đều tăng, trừ nhập khẩu thịt lợn tươi ướp lạnh giảm cả về lượng và trị giá so với năm 2023. Nhập khẩu thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh của Việt Nam trong năm 2024 đạt 109,8 nghìn tấn, với trị giá 257,29 triệu USD, giảm 8,9% về lượng và giảm 12,2% về trị giá so với năm 2023.

    Giá trung bình nhập khẩu thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh về Việt Nam ở mức 2.338 USD/tấn, giảm 3,7% so với năm 2023. Năm 2024, Việt Nam nhập khẩu thịt lợn khoảng 43 thị trường trên thế giới, trong đó Bra-xin cung cấp 39,95% tổng lượng thịt lợn nhập khẩu của cả nước; Nga cung cấp 30,33%; Ca-na-đa 6,35%, Đức 6,04%, Hà Lan 3,89%, các thị trường khác cung cấp 13,45%.

     

    Nguồn: Bản tin thị trường Nông – Lâm  – Thủy sản Bộ Công thương

     

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

  • Vũ Anh Tuấn
  • Gà nhà em khoẻ

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.