Nhu cầu về protein và amino acid đối với bò sắp đẻ - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi  Vĩnh Phúc 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 55.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng, Bình Thuận 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 59.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bến Tre 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Kiên Giang 59.000 đ/kg
    •  
  • Nhu cầu về protein và amino acid đối với bò sắp đẻ
    Trong 20 năm qua, nghiên cứu đã chứng minh được dinh dưỡng ảnh hưởng tiêu cực đến mức nào cho sức khoẻ, sản xuất sữa và sinh sản của bò. Kết quả là kỹ thuật dinh dưỡng bò cạn sữa đã được phát triển từ cách thức bỏ qua chế độ ăn uống được sắp đặt để ngăn ngừa cán cân năng lượng âm và nhiều vấn đề trao đổi chất có thể gây bệnh tật cho bò sắp đẻ (BSĐ) này. Mặc dù có sự biến chuyển này, vẫn còn đó nhiều điều có thể làm để cải thiện sức khoẻ và năng suất của loại bò ở giai đoạn chuyển tiếp này.

    Nhu cầu về protein và amino acid đối với bò sắp đẻ

     

    Robert Van Saun, bác sỹ thú y khuyến nông của Đại học Penn State, cho biết: cung cấp protein trao đổi chất (MP) và axit amin là những vấn đề khoa học mới về dinh dưỡng cho BSĐ. Nghiên cứu xác định nhu cầu protein cho loại bò này đang được tiến hành. Nhưng bây giờ chúng ta cũng đã biết rằng, khi xây dựng chế độ ăn cho BSĐ, chúng ta phải tính đến lượng protein cơ thể mà con vật sẽ huy động cho tiết sữa giai đoạn đầu chu kỳ, nhu cầu protein và axit amin của thai đang phát triển và khoản protein cần thiết để duy trì dự trữ “protein không ổn định” (labile protein) của bò.

     

    Yêu cầu tăng trưởng của bào thai

     

    Hơn 70% sự tăng trưởng của bào thai xảy ra 60-70 ngày cuối thai kỳ. Điều này gây nên phức tạp lớn nhất cho dinh dưỡng đối với loại bò còn vài tuần là đẻ khi mà lượng thức ăn cho chúng có thể rất thay đổi. Các mô hình dinh dưỡng hiện nay dành cho bò mang thai dựa trên đầu cuối là  thể trọng bê con và thành phần (hóa học) của bào thai; nhưng không giải quyết sự hao hụt tiềm năng lượng protein cơ thể mà bò mẹ hỗ trợ nhu cầu của bào thai. Hơn nữa, cũng không tính đến sự tăng trưởng và phát triển của tuyến vú.

     

    Việc huy động mô cơ thể cũng không dừng lại ở giai đoạn bò đẻ. Nghiên cứu của Van Der Drift và cộng sự (2012), cho thấy sự huy động đó xảy ra trước sau đẻ  4 tuần ở bò cạn sữa được cho ăn một khẩu phần chứa 12,6% protein thô.

     

    Van Saun giải thích: Có nhiều quan tâm và những bằng chứng giai thoại nói rằng có lợi ích nếu khẩu phần trước đẻ chứa =>1,100 gam/ngày MP. Sự ngộ nhận này có thể là do đánh giá thấp nhu cầu MP trước đẻ, hoặc từ việc cung cấp thiếu một axit amin hoặc các axit thiết yếu mà khẩu phần bị thiếu hoặc cho đủ lượng MP đối với bò ăn ít hơn hoặc kết hợp các yếu tố này.

     

    Axit amin

     

    Hàm lượng protein sữa thấp hơn có thể là dấu hiệu việc cung cấp MP không đủ và một sự tái phân chia axit amin để hỗ trợ đáp ứng miễn dịch hoặc sản xuất glucose trong gan. Khi xem xét hiệu quả tiết sữa ở nhiều đàn bò sữa, chúng tôi đã phát hiện ra rằng bò có sữa có hàm lượng protein <2,7% vào ngày đầu và thứ hai của thí nghiệm có tỉ lệ đậu thai lần đầu thấp hơn và nguy đậu thai tổng thể thấp hơn. Ngược lại, những bò cái tiêu thụ nhiều MP trước đẻ  >1350 g/ngày được cải thiện khả năng sinh sản.

     

    Tất cả các bò cái trải qua giai đoạn cân bằng âm protein trong giai đoạn đầu chu kỳ sữa, có vẻ hơi độc lập với khẩu phần protein trước đẻ dành cho chúng. Tuy nhiên, nghiên cứu của Ji và Dann (2013) cho thấy, khi huy động mô tế bào xảy ra, kho dự trữ “protein không bền vững” được dùng trong thời gian đầu chu kỳ sữa có thể bị tổn thương, dẫn đến nguy cơ cao cho sức khoẻ, hiệu quả sản xuất và sinh sản của con vật.

     

    Ngày nay nhu cầu protein cần phải được định nghĩa là kết hợp cả MP và axit amin. Đây là những viên gạch dựng thực tế rất cần thiết để cho con vật tổng hợp protein mô, glucoz (gluconeogenesis), và các chất trao đổi chất khác. Cho đến nay nghiên cứu đã cho thấy lợi ích từ việc bổ sung methionine, lysine và histidine vào thức ăn. Cũng có thể có các axit amin thiết yếu / hoặc không thiết khác có thể có lợi cho bò ở giai đoạn chuyển tiếp này. Hầu hết các nghiên cứu đã được thực hiện đến nay về axit amin, tập trung vào hiệu ứng về sản xuất sữa và thành phần sữa từ đầu đến giữa chu kỳ sữa.

     

    Xác định nhu cầu protein cho bò cạn sữa

     

    Với sự hiểu biết hiện tại về dinh dưỡng bò cạn sữa, chúng ta nên xây dựng chế độ dinh dưỡng cho BSĐ ở hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là cho dạ cỏ “ăn” để tạo ra một khối lượng vi sinh vật –  một nguồn đáng kể của MP. Giai đoạn thứ hai là cho bò ăn những thức ăn không được cung cấp trực tiếp từ dạ cỏ. Cách thức tương tự này cũng được áp dụng cho bò sữa. Ngoài ra, chế độ ăn cho bò cạn sữa cần được xác định rõ hơn. Tầm vóc, thể tạng của bò mẹ và tầm vóc của bê sinh ra phải được xem xét để xác định nhu cầu dinh dưỡng. Thể trọng dự đoán của bê con ​​có thể ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu dinh dưỡng của bò và phải được tính đến. Thách thức lớn nhất sẽ là các nhóm hỗn hợp bò cái để lứa đầu và đã đẻ nhiều lứa. Rõ ràng là một số bò có thể bị ăn quá nhiều, nhưng quan trọng hơn, chúng tôi muốn giảm thiểu số lượng bò cái không được cho ăn đủ, Van Saun nhấn mạnh.

     

    Một thách thức khác là quyết định mức độ ăn thích hợp. Khi ta xây dựng một chế độ ăn cho nhóm ăn lượng thức ăn dù ở mức trung bình, thì cũng chỉ có 50%  số bò sẽ ăn ít hơn. Phillips và cộng sự (2003), đã tóm tắt dữ liệu về mức ăn của bò trước đẻ đối với bò Holstein đẻ nhiều lứa. Mức tiêu thụ vật chất khô (DMI) trung bình là 27,1 +/- 5,5 bảng/ngày (~12,3 +/- 2,5 kg)  trong 21 ngày cuối cùng trước khi đẻ. Họ nhận thấy rằng 15% bò có mức ăn vật chất khô < 22 bảng/ngày (~10 kg). Vì lý do này, các nhà nghiên cứu khuyến cáo rằng chế độ ăn cho bò gần cạn sữa  nên có MP là 1,300 – 1,400 g/ngày để đảm bảo số lượng bò thích hợp tiêu thụ được lượng MP là 1080 g/ngày có từ thức ăn.

     

    Năng suất theo dõi được ở các trang trại cho thấy hàm lượng protein và nguồn protein trong chế độ ăn cho BSĐ là một yếu tố quan trọng để đảm bảo giai đoạn chuyển tiếp xảy ra suôn sẻ. Để cải thiện hơn nữa sức khỏe và hiệu quả, chúng ta phải định nghĩa rõ hơn về bò cạn sữa để có thể cải thiện chế độ ăn. Điều chỉnh hàm lượng MP để tính đến sự biến động trong lượng thức ăn ăn vào. Mục tiêu là tất cả các con BSĐ có thể tiêu thụ ít nhất MP là 1000 g/ngày. Và lời khuyên của chúng tôi là xây dựng một chế độ ăn cho BSĐ có chứa 90-100 g MP cho trong mỗi kg vật chất khô để đáp ứng nhu cầu MP của đa phần bò cạn sữa trong nhóm.

     

    Chọn protein

     

    Quyết định của bạn về sản phẩm protein nào sẽ cung cấp tốt nhất các protein có thể chuyển hóa và các axit amin thiết yếu cho bò gần cạn sữa nên căn cứ trên công trình nghiên cứu này.

     

     

    Võ Văn Sự dịch

    Nguồn: Viện Chăn nuôi

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.