Stress nhiệt: 3 chiến lược tiết kiệm chi phí thức ăn chăn nuôi heo - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi  Vĩnh Phúc 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 55.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng, Bình Thuận 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 59.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bến Tre 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Kiên Giang 59.000 đ/kg
    •  
  • Stress nhiệt: 3 chiến lược tiết kiệm chi phí thức ăn chăn nuôi heo

    Stress nhiệt là một vấn đề theo mùa mà người sản xuất có thể giải quyết bằng cách thay đổi thức ăn. Bài viết này đề xuất ba chiến lược về chế độ ăn uống có thể được thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp để hỗ trợ tăng trưởng cho heo và tạo ra lợi nhuận.

     

    Vào mùa hè, người chăn nuôi heo quan sát thấy hiệu suất tăng trưởng của vật nuôi giảm dẫn đến thiệt hại kinh tế. Năm 2021, heo bị giết mổ từ giữa tháng 6 đến tháng 9 có khối lượng 2,3 kg (5 lb) trọng lượng thân thịt giảm so với heo được giết mổ từ tháng 10 đến giữa tháng 6 (USDA, 2021). Những thiệt hại này tương đương với 6 đô la Mỹ cho mỗi con heo.

     

    Để thích nghi với cái nóng mùa hè, cơ thể heo cần thực hiện các thay đổi sinh lý giúp tản nhiệt hiệu quả hơn và giảm sinh nhiệt trong quá trình trao đổi chất.

     

    Stress nhiệt làm giảm lượng ăn vào và do đó giảm lượng axit amin và năng lượng, đồng thời sản xuất nhiều loại oxy phản ứng hơn. Tổn thương niêm mạc ruột, khả năng hấp thụ axit amin kém hơn, tăng trọng trung bình hàng ngày (ADG) và tỷ lệ tăng trọng trên thức ăn (G:F) cũng thấp hơn.

     

    Hiểu được những thay đổi sinh lý này giúp đề xuất và thử nghiệm các chiến lược dinh dưỡng để tạo điều kiện thuận lợi cho heo thích nghi với nhiệt độ. Dưới đây là ba chiến lược dinh dưỡng khả thi để duy trì sự tăng trưởng của heo trong thời gian bị stress nhiệt.

    1. GIẢM HÀM LƯỢNG PROTEIN THÔ

     

    Tăng lượng protein ăn vào dẫn đến sinh nhiệt cao hơn trong quá trình trao đổi chất. Một đánh giá về hiệu suất tăng trưởng ở heo trong điều kiện stress nhiệt cho thấy heo ăn khẩu phần có 11,3% protein thô – so với 13,6% protein thô – có lượng thức ăn ăn vào và trọng lượng cơ thể sống cuối cùng cao hơn do hàm lượng năng lượng ròng trên một đơn vị thức ăn lớn hơn và đóng góp tiềm năng sinh nhiệt trong quá trình trao đổi chất thấp hơn. Việc cắt giảm lượng protein đã được chứng minh là cải thiện năng suất của heo bị stress nhiệt và giảm chi phí thức ăn.

     

    Năm 2018, một nhóm các nhà nghiên cứu do Tiến sĩ John Htoo trực thuộc Evonik dẫn đầu đã phân tích dữ liệu từ 30 nghiên cứu đánh giá tác động của việc giảm hàm lượng protein trong khẩu phần ăn của heo trong điều kiện không bị stress nhiệt. Bảy tác động bất lợi được báo cáo, có thể được giải thích bằng sự thiếu hụt hàm lượng axit amin thiết yếu và axit amin không thiết yếu. Do đó, việc giảm protein khẩu phần đòi hỏi phải đánh giá tỉ mỉ từng nguyên liệu thức ăn, sự tin tưởng về nhu cầu axit amin thiết yếu của heo trong điều kiện bình thường hoặc đầy thử thách, hàm lượng axit amin không thiết yếu đủ trong khẩu phần và sử dụng hệ thống năng lượng ròng để xây dựng công thức thức ăn chăn nuôi phù hợp.

     

    2. TĂNG MẬT ĐỘ AXIT AMIN TRONG KHẨU PHẦN

     

    Giảm lượng ăn vào ở heo bị stress nhiệt bị ảnh hưởng bởi độ tuổi, kích thước và nhiệt độ môi trường. Sự sụt giảm lớn ở những con heo nặng hơn và trở nên tồi tệ hơn khi nhiệt độ xung quanh tăng lên. Năm 2011, một nhóm các nhà nghiên cứu do David Renaudeau trực thuộc Viện Văn hóa Nông nghiệp, Thực phẩm và Môi trường Quốc gia Pháp (INRAE) đã đào sâu vào chủ đề này. Nhóm nghiên cứu ước tính rằng những con heo có trọng lượng cơ thể 25, 50 và 75 kg (tương ứng là 55, 110 và 165 lb) sẽ giảm lượng thức ăn ăn vào lần lượt là 9, 32 và 55 g/ngày khi nhiệt độ 26°C trở lên. Để tăng mật độ axit amin trong khẩu phần ăn, người chăn nuôi nên so sánh lượng ăn vào của heo được nuôi trong mùa hè và không phải mùa hè, lý tưởng nhất là ở giai đoạn tăng trưởng (ví dụ: nếu ước tính lượng thức ăn ăn vào giảm 25% trong mùa hè, thì mật độ axit amin tăng 25% có thể giúp hỗ trợ tăng trưởng).

     

    Năm 2018, một nhóm do nhà nghiên cứu Adriana Morales Trejo thuộc Đại học tự trị Baja California ở Mexico đã đánh giá năng suất tăng trưởng và trọng lượng thân thịt nóng của heo có trọng lượng cơ thể 33 kg (73 lb) trong điều kiện stress nhiệt (28 đến 38°, 21 ngày thử nghiệm). Nhóm nghiên cứu đã chỉ định áp dụng một trong ba lô thử nghiệm bằng các khẩu phần ăn để xác định xem việc tăng 25% nồng độ axit amin thiết yếu so với khuyến nghị của Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia (NRC) năm 2012 có thể cải thiện năng suất của chúng hay không và liệu nguồn cung cấp các axit amin, như bột đậu nành hoặc axit amin tinh thể, ảnh hưởng đến năng suất khác nhau. Các lô thử nghiệm bổ sung thêm 25% axit amin thiết yếu dưới dạng protein nguyên vẹn (CON+IP) hoặc axit amin tinh thể (CON+AA).

     

    Trong thí nghiệm này, không có sự khác biệt về lượng ăn vào ở heo. Những khẩu phần được cho ăn chứa nhiều axit amin thiết yếu hơn đã thấy sự gia tăng ADG và G:F. Tuy nhiên, việc cung cấp thêm axit amin bằng cách sử dụng axit amin tinh thể thay vì bột đậu nành làm tăng hiệu quả chế độ ăn uống, thể hiện ở tỷ lệ G:F lớn hơn.

     

    3. TĂNG NHU CẦU METHIONINE

     

    Khi bị stress nhiệt, heo tích tụ các loại oxy hóa phản ứng phá vỡ tính toàn vẹn và tăng tính thấm của tế bào, dẫn đến tổn thương nội tạng và rò rỉ ruột.

     

    Các enzyme chống oxy hóa trong cơ thể – như catalase, superoxide dismutase và glutathione peroxidase – làm giảm các loại oxy hóa phản ứng và chuyển đổi chúng thành các phân tử không gây hại cho cơ thể.

     

    Glutathione – chất chống oxy hóa tế bào mạnh nhất – được dùng bởi glutathione peroxidase để giảm các loại oxy phản ứng. Nó được cơ thể sản xuất bằng cách sử dụng glutamine và glycine (thường là dồi dào) và cysteine (giới hạn theo điều kiện). Methionine là tiền chất của cysteine và ở mức tối ưu có thể đảm bảo cho quá trình tổng hợp glutathione. Do đó, trong thời gian stress nhiệt, nhu cầu về methionine có thể lớn hơn để khôi phục lại sự cân bằng giữa chất oxy hóa và chất chống oxy hóa trong cơ thể.

     

    Một nghiên cứu gần đây vào năm 2021 được thực hiện bởi một nhóm do Adria na Morales Trejo dẫn đầu tại Đại học tự trị Baja California ở Mexico, với sự hỗ trợ của Evonik. Kết quả cho thấy rằng heo trong điều kiện stress nhiệt được cho ăn ở mức 120% methionine so với mức đề nghị của NRC (2012) đã cải thiện tốc độ tăng trưởng, sử dụng lysine và threonine, cũng như khả năng chống oxy hóa, như được thể hiện trong

     

    Những phát hiện này cho thấy rằng methionine bị hạn chế khi heo bị stress nhiệt và việc tăng mức độ methionine sẽ tối ưu hóa việc sử dụng lysine và threonine và các axit amin khác. Nhóm nghiên cứu đã đánh giá lợi ích kinh tế của việc cho heo ăn methionine ở mức 120% so với mức khuyến nghị 100% của NRC trong thời gian trung hòa nhiệt độ hoặc điều kiện stress nhiệt. Việc tăng tỷ lệ methionine lên 120% so với khuyến nghị đã được chứng minh là làm tăng hiệu quả tăng trưởng của heo trong điều kiện stress nhiệt và giảm chi phí thức ăn trên mỗi đơn vị tăng trọng.

     

    KẾT LUẬN

     

    Giảm hàm lượng protein thô cùng với cân bằng hợp lý axit amin trong khẩu phần ăn có thể làm tăng hàm lượng năng lượng ròng, cải thiện năng suất sinh trưởng và giảm chi phí thức ăn trên một đơn vị tăng trọng của heo bị stress nhiệt. Việc tăng mật độ axit amin bằng cách sử dụng bột đậu nành gắn với protein hoặc axit amin tinh thể đã chứng minh ADG và G:F của heo bị stress nhiệt, nhưng việc tăng mật độ axit amin chỉ bằng axit amin tinh thể còn làm tăng thêm G:F.

     

    Bổ sung methionine ở mức 120% so với khuyến nghị của NRC cho heo bị stress nhiệt đã cải thiện tốc độ tăng trưởng của heo, sử dụng lysine và threonine cũng như tình trạng chống oxy hóa. Nó cũng làm giảm chi phí thức ăn trên mỗi đơn vị tăng trọng so với heo được cho ăn mức 100% theo khuyến nghị của NRC.

     

    Sưu tầm & Biên dịch: Ecovet Team

    (Tác giả: Tiến sĩ Maria Mendoza)

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.