Khoáng vi lượng đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe, sự tăng trưởng và phát triển của heo con. Các khoáng vi lượng quan trọng nhất đối với heo con là sắt, kẽm, mangan và đồng. Cân đối tỷ lệ các khoáng chất này trong thức ăn của heo con có thể tối ưu hóa sự tăng trưởng, tăng cường khả năng miễn dịch và giảm thải khoáng chất dư thừa ra môi trường. Bài viết này sẽ xem xét tỷ lệ và mức độ khoáng vi lượng lý tưởng cho heo con dựa trên nghiên cứu khoa học mới nhất.
SẮT
Sắt rất cần thiết cho quá trình tổng hợp hemoglobin, vận chuyển oxy, chuyển hóa năng lượng và chức năng miễn dịch ở heo con [1]. Heo con được sinh ra với lượng sắt dự trữ hạn chế và phát triển nhanh chóng, dễ bị thiếu máu do thiếu sắt [2]. Hầu hết thức ăn của heo con được bổ sung 100-200 mg/kg sắt từ các nguồn vô cơ như sắt sunfat [3]. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây cho thấy mức thấp hơn khoảng 35-50 mg/kg từ các nguồn sắt hữu cơ sinh học có thể đáp ứng nhu cầu trong khi giảm thải qua phân [4]. Mức độ sắt tối ưu phụ thuộc vào khả dụng sinh học của nguồn.
KẼM
Kẽm đóng vai trò quan trọng trong chức năng miễn dịch, tăng trưởng, sinh sản và chống oxy hóa ở heo con [5]. thức ăn của heo con thường chứa 80-3000 mg/kg kẽm bổ sung dưới dạng ZnO [6]. Mức 100 mg/kg từ các nguồn hữu cơ như kẽm glycin có thể đủ trong khi liều dược lý cao hơn cải thiện hiệu suất tăng trưởng [7]. Tuy nhiên, EU đã cấm dùng >150 mg/kg ZnO vì lo ngại ô nhiễm[8]. Mức kẽm hữu cơ thấp hơn khoảng 30-60 mg/kg có thể đáp ứng nhu cầu trong khi giảm thải [4].
MANGAN
Mangan kích hoạt các enzyme liên quan đến sự hình thành xương, trao đổi chất và chức năng chống oxy hóa ở heo con [9]. Nồng độ mangan khoảng 4-40 mg/kg từ các nguồn vô cơ như mangan sunfat thường được bổ sung vào thức ăn heo con[10]. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy chỉ cần 2-3 mg/kg từ các nguồn hữu cơ như mangan glycin có thể đáp ứng nhu cầu trong khi giảm thải[4].
ĐỒNG
Đồng đóng vai trò thiết yếu trong quá trình chuyển hóa sắt, hình thành mô liên kết, chức năng thần kinh và khả năng miễn dịch ở heo con[11]. thức ăn của heo con thường cung cấp 5-25 mg/kg đồng từ các nguồn vô cơ như đồng sunfat[12]. Tuy nhiên, mức độ khoảng 3-8 mg/kg từ các nguồn hữu cơ như đồng lysin dường như đủ trong khi giảm ô nhiễm đồng trong phân[4].
TỶ LỆ LÝ TƯỞNG
Dựa trên các công thức thức ăn điển hình và khả dụng sinh học của các nguồn khác nhau, tổng mức độ ăn uống lý tưởng và tỷ lệ của các khoáng vi lượng này cho heo con dường như là:
- Sắt: 35-50 mg/kg (từ các nguồn hữu cơ)
- Kẽm: 50-100 mg/kg (từ các nguồn hữu cơ)
- Mangan: 2-3 mg/kg (từ các nguồn hữu cơ)
- Đồng: 3-8 mg/kg (từ các nguồn hữu cơ)
- Tỷ lệ sắt:kẽm khoảng 1:2
- Tỷ lệ kẽm:đồng khoảng 10:1
NGUỒN HỮU CƠ VÀ VÔ CƠ
Khoáng vi lượng hữu cơ (dạng chelat hoặc protein) có sinh khả dụng cao hơn so với muối vô cơ như sunfat. Các nguồn hữu cơ bao gồm glycin sắt, kẽm glycin, mangan glycin và lysin đồng được khuyến nghị ở mức thấp hơn 20-50% so với dạng vô cơ để đáp ứng nhu cầu trong khi giảm thải[4].
KẾT LUẬN
Tóm lại, bổ sung thức ăn cho heo con với hàm lượng khoáng vi lượng hữu cơ thấp hơn bao gồm sắt, kẽm, mangan và đồng theo tỷ lệ khoảng 1:2:0,5:0,5 có thể tối ưu hóa tăng trưởng và sức khỏe đồng thời giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu sâu hơn về khả dụng sinh học và tương tác giữa các khoáng chất là cần thiết để tinh chỉnh tỷ lệ và mức độ lý tưởng. Dinh dưỡng khoáng vi lượng cẩn thận là rất quan trọng cho năng suất, sức khỏe của heo con.
Nguồn: ecovet.com.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Hostetler, C.E., Kincaid, R.L., Mirando, M.A., 2003. The role of essential trace elements in embryonic and fetal development in livestock. Vet. J. 166, 125-139.
[2] Svoboda, M., Drabek, J., 2005. Iron deficiency in suckling piglets: etiology, clinical aspects and diagnosis. Folia Vet. 49, 104-111.
[3] Giannenas, I. et al., 2015. Effect of Dietary Iron Sulfate and Iron Chelate on Growth Performance, Hematological Traits, Intestinal Microbial Flora of Fattening Pigs and Quality Parameters of Porkmeat. Asian J. Anim. Vet. Adv. 10, 862-873.
[4] Tokarčíková, K. et al., 2022. Trace Mineral Solubility and Digestibility in the Small Intestine of Piglets Are Affected by Zinc and Fibre Sources. Agriculture. 12, 517.
[5] Hahn, J.D., Baker, D.H., 1993. Growth and plasma zinc responses of young pigs fed pharmacologic levels of zinc. J. Anim. Sci. 71, 3020-3024.
[6] Dalto, D.B. et al., 2022. Modulation of Zinc, Copper and Iron Transporters in Weaned Pigs Fed Different Dietary Zinc/Copper Ratios. J. Anim. Sci. 101, 147-148.
[7] Case, C.L., Carlson, M.S., 2002. Effect of feeding organic and inorganic sources of additional zinc on growth performance and zinc balance in nursery pigs. J. Anim. Sci. 80, 1917-1924.
[8] EFSA Panel on Additives and Products or Substances used in Animal Feed, 2016. Scientific opinion on the potential reduction of the currently authorised maximum zinc content in complete feed. EFSA J. 14, e04742.
[9] Leach, R.M., Harris, E.D., 1997. Manganese. In: Handbook of Nutritionally Essential Mineral Elements. Marcel Dekker, New York, pp 335-356.
[10] Faccin, J. et al., 2022. A Survey of Added Trace Mineral Levels in Diets Utilized in the U.S. Swine Industry. J. Anim. Sci. 101, 147-148.
[11] Davis, G.K., Mertz, W., 1987. Copper. In: Mertz, W. (Ed.), Trace Elements in Human and Animal Nutrition. Academic Press, Orlando, FL, pp 301-364.
[12] Cromwell, G.L. et al., 1998. Effects of dietary iron and copper levels on performance and lipid metabolism in finishing pigs. J. Anim. Sci. 76, 2967-2975.
[13] Wang, C. et al., 2019. Dietary replacement of inorganic trace minerals with lower levels of organic trace minerals leads to enhanced antioxidant capacity, nutrient digestibility, and reduced fecal mineral excretion in growing-finishing pigs. Front. Vet. Sci. 10:1142054.
- chăm sóc heo con li>
- khoáng vi lượng li> ul>
- Cúm gia cầm: Các phương pháp phòng ngừa và kiểm soát tại các trang trại gia cầm
- Tác động của các loại khoáng trong nước
- Nhu cầu dinh dưỡng tối ưu của vịt đẻ trứng
- Biện pháp dinh dưỡng ngăn ngừa bệnh lỵ ở heo con
- Các chuyên gia giới hạn nguyên liệu trong công thức như thế nào: phương pháp và nguyên tắc
- Nghiên cứu cho thấy bóng râm ở bãi chăn nuôi giúp cải thiện mức tăng trọng hàng ngày của gia súc
- Cho gia súc ăn rong biển đỏ có thể làm giảm đáng kể lượng khí mê-tan thải ra từ đường ruột
- AI – Có thể thay đổi các nhà máy TĂCN trong tương lai như thế nào?
- Lông gia cầm có thể đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bệnh HPAI
- Xây dựng tiêu chuẩn (nhu cầu) dinh dưỡng cho gà thả vườn
Tin mới nhất
T2,24/03/2025
- Chẩn đoán sức khỏe đường ruột nhanh chóng với công nghệ tiên tiến từ Orffa & Florates
- Kiểm kê khí nhà kính để giảm phát thải chăn nuôi
- BAF khởi công xây dựng nhà máy thức ăn chăn nuôi thứ 3, công suất 300.000 tấn/năm
- Chăn nuôi thông minh: Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giám sát dịch bệnh
- Ứng dụng vi sinh vật (Probiotics) trong xử lý chất thải chăn nuôi
- Nhập khẩu ngô 2 tháng đầu năm 2025 giảm cả lượng, kim ngạch và giá
- Bổ sung N-Carbamylglutamate (NCG) qua đường miệng giúp thúc đẩy tổng hợp protein trong cơ xương của heo con
- Toàn tỉnh có 947 cơ sở chăn nuôi thuộc diện di dời khỏi khu vực không được phép chăn nuôi
- Xuất khẩu thịt bò và thịt cừu của Australia tháng 2/2025 đạt kỷ lục mới
- Những thách thức lớn trong thu thập dữ liệu chăn nuôi tại Việt Nam
- Chẩn đoán sức khỏe đường ruột nhanh chóng với công nghệ tiên tiến từ Orffa & Florates
- VIV ASIA 2025: Giao thoa công nghệ và cơ hội đưa ngành chăn nuôi Việt Nam vươn tầm quốc tế
- Tannin thủy phân: Giải pháp hoàn hảo cho hệ tiêu hóa khỏe mạnh
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
Bình luận mới nhất