Hiểu được tình trạng hiện tại của đàn gia súc là điều tối quan trọng để phát triển thành công và thực hiện chương trình kiểm soát Hội chứng suy giảm hô hấp và sinh sản – (Hay còn gọi là bệnh tai xanh) (PRRS -Porcine Reproductive & Respiratory Syndrome).
Nhiều thuật ngữ được sử dụng để mô tả một trạng thái PRRS; như dương tính, âm tính, giả vờ (naïve), hoạt động, lâm nguy (shedding), ổn định, không lâm sàng, v.v… Tuy nhiên chúng thường không được định nghĩa rõ ràng, dẫn đến sự thiếu rõ ràng về tình trạng thực sự của đàn. Vì thế cần có một định nghĩa rõ ràng và một “ngôn ngữ” phổ thông dành cho bác sĩ thú y và các nhà chăn nuôi về tình trạng đàn gia súc để tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền thông hướng tới việc kiểm soát PRRS trong một đàn cũng như là cho cả ngành chăn nuôi lợn. Bài báo này sẽ đề cập đến các định nghĩa được đề xuất và thông qua bởi Hiệp hội các Bác sĩ Thú y Hoa Kỳ được công bố năm 2011 bởi Holtkamp và CS và thảo luận việc áp dụng thực tế chẩn đoán PRRS để xác định được trạng thái thực của PRRS.
Chẩn đoán PRRS được sử dụng để xác định hiện trạng đàn vật nuôi
Hai phương pháp chẩn đoán phổ biến để xác định PRRS là: Xét nghiệm kháng thể và kháng nguyên.Xét nghiệm kháng thể cung cấp thông tin về việc tiếp xúc với virut PRRS. Thử nghiệm miễn dịch liên kết enzyme (ELISA) là thử nghiệm kháng thể được sử dụng rộng rãi nhất đối với PRRS ở Hoa Kỳ. Các kết quả kiểm tra dương tính chỉ ra sự tiếp xúc hiện thời và trước đó với PRRS, hoặc ở những lợn con, kháng thể có nguồn gốc từ lợn mẹ đã phơi nhiễm với virut này. Tuy nhiên, thử nghiệm này không cung cấp bất kỳ thông tin nào về khung thời gian lây nhiễm; có nghĩa là một con vật dương tính có thể đã bị nhiễm vào tháng / năm trước.
Ngược lại, xét nghiệm kháng nguyên cho phép chúng ta phát hiện kháng nguyên virut PRRS thực sự. Phản ứng chuỗi polymerase (PCR) có thể được thực hiện trên các loại mẫu khác nhau bao gồm huyết thanh, tinh dịch, tăm bông (blood swab) và nước dãi. Kết quả xét nghiệm dương tính với PCR cho biết sự phát tán virus có từ một cá thể hay từ một quần thể. Nói cách khác, các kết quả xét nghiệm dương tính xác định được nguồn lây nhiễm PRRS vì các động vật dương tính hiện đang bị nhiễm bệnh.
Để xác định được hiện trạng của một đàn lợn, 2 loại chẩn đoán này phải được sử dụng kết hợp hài hòa. Đo lường phơi nhiễm, ELISA, đưa ra một cái nhìn khái quát tổng quát về nhiễm trùng, trong khi đo lường của sự lâm bệnh, PCR xác định được cá thể hoặc quần thể đang bị nhiễm tại thời điểm ta lấy mẫu.
4 hạng phân loại đàn vật
Áp dụng các phương pháp xác định phơi nhiễm và đổ bệnh với đàn vật nuôi sẽ cho chúng ta 4 hạng như sau:
1. Dương tính không chắc (Positive unstable). Đây là hạng mặc định trong phân loại PRRS, với đặc trưng là biểu hiện phơi nhiễm và đổ bệnh không rõ ràng. Xếp vào hạng này là các đàn vật đã được xác nhận phơi nhiễm với xét nghiệm ELISA và PCR cho kết quả dương tính. Giai đoạn này bao gồm những đàn lợn có dấu hiệu lâm sàng rõ ràng về nhiễm PRRS, cũng như những đàn đang xuất hiện trên con đường phục hồi về mặt lâm sàng.
2. Dương tính ổn định (Positive stable). Từ “dương tính” ám chỉ một đàn vật có bằng chứng phơi nhiễm. Tình trạng đổ bệnh của đàn vật không chắc chắn. Từ “chắc chắn”, trong trường hợp này, không những chỉ chỉ ra hình ảnh lâm sàng, mà còn cho biết là các cột mốc đã được đáp ứng để ghi lại một khoảng thời gian mà không có ngả bệnh; hiểu rằng việc chấm dứt hoàn toàn trạng thái đổ bệnh có thể không chính xác. Những đàn này phải có 90 ngày xét nghiệm tiến hành tối thiểu 4 lần, cách nhau 30 ngày với PCR cho kết quả âm tính.
3. Âm tính tạm thời (Provisional negative): Hạng này chỉ áp dụng cho đàn vật làm giống và cũng là một hạng chuyển tiếp cho đàn vào cuối con đường dẫn đến tình trạng âm tính PRRS. Các đàn trong hạng này không có bằng chứng về sự lâm bệnh, nhưng vẫn có gia súc lớn tuổi có kết quả dương tính ELISA cho thấy sự phơi nhiễm trước. Các đàn đạt được hạng này khi lớp con thay thế âm tính với ELISA 60 ngày sau khi nhập đàn.
4. Âm tính: Hạng này áp dụng cho đàn vật không có bằng chứng về phơi nhiễm hoặc lâm bệnh; âm tính PCR và ELISA.
Các hạng này được áp dụng ở Hoa Kỳ, nhưng có thể được sửa đổi để thể hiện thực hành quản lý, hoặc các biện pháp can thiệp để đảm bảo kiểm soát PRRS trên một đàn vật cụ thể. Hai ví dụ phổ biến về điều này là ” không ổn định dương tính – được tiêm chủng với virus đã biến dạng” và ” ổn định dương tính – loại bỏ đang xẩy ra”. Những sửa đổi này cấp cho bác sĩ thú y và các nhà chăn nuôi không chỉ phân loại, mà còn là một ý tưởng về kế hoạch để đạt được kiểm soát PRRS trong đàn. Những hạng này áp dụng cho tất cả đàn lợn giống. Các đàn lợn vỗ béo đang được nuôi “ngoài trại chính – Off-site” ở 2 -3 nơi đơn giản chỉ được phân hạng là dương tính (đổ bệnh và / hoặc phơi nhiễm dương tính) hoặc âm tính (đổ bệnh và phơi nhiễm khi phơi nhiễm không có chứng cứ miễn dịch có nguồn gốc từ mẹ sang PRRS).
Lộ trình: Sử dụng “cổng chẩn đoán” theo cách tiếp cận tổng thể để xác định tình trạng đàn gia súc. Một cách tiếp cận thực tiễn và có hệ thống để xác định tình trạng hiện tại trong lứa đẻ để kết thúc đàn phải xem xét các loại trên, cũng như kiến thức về chuỗi nhiễm trùng.
Thực tế chúng tôi hiểu rằng nếu có “dòng lên – up-stream” mắc PRRS (dương tính PCR) trong một đàn mà các “dòng xuống – down-stream có thể, hoặc sớm trở thành, phơi nhiễm và có khả năng lâm bệnh. Với khái niệm này trong tay, tôi đề xuất khái niệm “cửa chẩn đoán” tại các điểm khác nhau trong chuỗi nhiễm bệnh để hiểu được điểm cao hơn nơi có thể phát hiện nhiễm PRRS.
Các cổng chẩn đoán là: Nguồn tinh dịch – Thay thế lợn con – Lợn con khi sinh – Con lợn con cai sữa
Kết luận và Khuyến nghị
Một kế hoạch chẩn đoán thích hợp để đánh giá việc đổ bệnh và phơi nhiễm là cần thiết để xác định chính xác tình trạng hiện tại của một đàn. Đây là một bước quan trọng vì nó xác định điểm xuất phát của quá trình PRRS.
Biên dịch: Võ Văn Sự
Nguồn: Viện Chăn nuôi
- Hội chứng rối loạn sinh sản li> ul>
2 Comments
Để lại comment của bạn
- L-Histidine cải thiện chất lượng thịt, giảm rỉ dịch, cho màu thịt đẹp
- Cân bằng điện giải trong thức ăn gia cầm trong thời kỳ chuyển mùa
- Ảnh hưởng của các mức selenomethionine đến chất lượng thịt và sự tích luỹ selen trong mô
- Khả năng tiêu hoá tinh bột ở động vật và lợi ích của amylase
- Bệnh xuất huyết thỏ (Rabbit haemorrhagic disease – RHD)
- Ảnh hưởng của nguồn cung cấp natri không chứa clo
- Đa dạng sản phẩm chế biến từ gà Tiên Yên
- Dinh dưỡng gà thịt bền vững và mẹo xây dựng công thức
- Cách phòng ngừa bệnh viêm phổi ở gia cầm thương mại
- Cho ăn chính xác có thể làm giảm lượng khí thải từ các trang trại chăn nuôi lợn
Tin mới nhất
T6,27/12/2024
- Bí quyết nuôi gà đẻ sai trứng, cứng vỏ
- L-Histidine cải thiện chất lượng thịt, giảm rỉ dịch, cho màu thịt đẹp
- Xuất khẩu thức ăn gia súc sang các thị trường 11 tháng đầu năm 2024
- Tổng hợp giá heo tại một số quốc gia trên thế giới ngày tính đến ngày 25/12/2024
- Cargill khánh thành ba điểm trường mới phục vụ hơn 300 học sinh trong năm 2024, đạt mốc 117 trường tại Việt Nam
- CNC Group: Tỏa sáng tại giải thưởng Sao Vàng đất Việt 2024
- Cân bằng điện giải trong thức ăn gia cầm trong thời kỳ chuyển mùa
- Tự động hóa và kỹ thuật số trong nhà máy sản xuất TĂCN
- Phòng chống dịch tả lợn châu Phi ở Đông Nam Á: Cần chiến lược kiểm soát
- Hội Chăn nuôi thỏ Việt Nam: Đẩy mạnh kết nối chuỗi giá trị ngành chăn nuôi thỏ
- Biogénesis Bagó: Tăng tốc tại thị trường châu Á thông qua việc thiết lập văn phòng khu vực tại Việt Nam
- Hiệu quả từ nuôi vịt xiêm trên sàn lưới
- 147 nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi hàng đầu thế giới năm 2023: New Hope chiếm giữ vị trí số 1
- Một số ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi
- Nghiên cứu mới giúp gà thả vườn tăng cân, giảm nhiễm bệnh
- Hiệu quả liên kết chăn nuôi gia cầm theo hình thức gia công
- Quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc heo thịt
- Các quy trình ngoại khoa trên heo con và những vấn đề cần lưu ý
- Bệnh Dịch tả heo châu Phi: Làm tốt An toàn sinh học đến đâu, rủi ro bệnh càng thấp tới đó!
- Quy trình xử lí chuồng trại sau khi bị nhiễm dịch tả heo châu Phi
Hệ thống iiPCR POCKIT – Chẩn đoán nhanh bệnh Dịch tả lợn Châu Phi ngay tại trại nuôi, giúp người chăn nuôi kiểm soát tốt mầm bệnh – Liên hệ: Mr Dũng – 0865685765
Sau khi lấy mẫu định kì kiểm tra PRRS thì thấy có 4 trường hợp xảy ra, trường hợp 1: kháng nguyên (+) trên 25%, kháng thể (+). Trường hợp 2: kháng nguyên (+) dưới 25%, kháng thể (+).
Phân tích và đưa ra phương pháp xử lý