Thương mại thịt dê: Nhu cầu lớn, ít thông tin thị trường - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi  Vĩnh Phúc 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 55.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng, Bình Thuận 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 59.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bến Tre 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Kiên Giang 59.000 đ/kg
    •  
  • Thương mại thịt dê: Nhu cầu lớn, ít thông tin thị trường

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam thịt dê ở Việt Nam ngày càng tăng, nhưng chăn nuôi cung không đủ cầu, nên các thương lái nhập khẩu nhiều dê từ Lào về theo đường tiểu ngạch vào Việt Nam.

     Dự án ACIAR LS/2017/034 với chủ đề “Hệ thống sản xuất và thị trường dê ở Lào và Việt Nam”, do Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia tài trợ triển khai từ năm 2019 đến năm 2024. Dự án có mục tiêu chung là tăng cường cơ hội nâng cao thu nhập cho các hộ chăn nuôi dê thông qua việc phát triển các hệ thống chăn nuôi.

     

     Dự án triển khai 4 nhiệm vụ cụ thể: Khảo sát các hệ thống chăn nuôi dê ở Lào và Việt Nam; đánh giá các hạn chế chính và xác định các giải pháp tiềm năng; giảm thiểu rủi ro thị trường và tăng cơ hội tiếp thị thông qua việc nâng cao hiểu biết các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu và giá dê ở Lào và Việt Nam, và các chuỗi giá trị liên kết; xây dựng năng lực nghiên cứu và phát triển chăn nuôi dê.

     

     Tại Việt Nam, Trường Đại học Nông Lâm Huế (HUAF) và Viện Chăn nuôi (NIAS) là các tổ chức tham gia dự án, chủ yếu tập trung vào phân tích chuỗi thị trường. TS. Nguyễn Hữu Văn, thành viên triển khai Dự án ACIAR: LS/2017/034 cho biết, nhóm Việt Nam, phối hợp với các đối tác Australia và Lào, đã hoàn thành dự thảo tổng quan tài tiệu về tình hình sản xuất và thị trường dê ở Lào và Việt Nam.

     

     Việt Nam có đàn dê và cừu trên 2,8-3,0 triệu con, với tốc độ tăng trưởng số lượng 15,45%. Đàn dê nước ta tập trung chủ yếu ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, tiếp theo là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Hai vùng này chiếm 57,41% về tổng đàn dê và 51,16% về sản lượng thịt dê; ĐBSCL. Chăn nuôi dê chủ yếu ở quy mô nông hộ với giống dê bản địa hoặc dê lai nhưng cũng đã xuất hiện ở một số trang trại nuôi dê thịt lớn từ 1.000 đến 3.000 dê thịt, chủ yếu là giống ngoại ở Lâm Đồng, Ninh Bình và Long An.

     

    Theo thống kê của Tổng cục thống kê, cả nước có 417.188 hộ chăn nuôi dê. Trong đó, có 306.305 hộ nuôi dưới 10 con/hộ, chiếm 73,42%; 97.019 hộ nuôi từ 10-29 con/hộ (chiếm 23,26%); có 10. 620 con hộ nuôi từ 30-49con/hộ, chiếm 2,55%, số hộ nuôi trên 50 con/hộ chỉ chiếm 0,78%. Trong những năm trở lại đây, nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm của chăn nuôi dê cừu tăng nhanh. Tuy nhiên, việc xác định quy mô thị trường dê ở Việt Nam rất khó do thiếu thông tin chính thống về thị trường. Mặt khác, do dê nuôi ở Việt Nam cung không đủ cầu, nên các thương lái chủ yếu nhập khẩu dê từ Lào về theo đường tiểu ngạch vào Việt Nam. Nhu cầu đối với thịt dê do các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ ở Lào cung cấp ngày càng tăng. Họ tin rằng hương vị của dê “núi” hoặc dê ‘cỏ’ luôn thơm ngon hơn thịt dê lai khác. 

     

     Phần lớn lượng dê được nuôi tại các tỉnh Đông Nam Lào được bán sang Việt Nam thông qua cửa khẩu Lao Bảo. Nghiên cứu trong hoạt động R&D thuộc dự án ACIAR 16-027 cho thấy, thương lái Lào giao dê sống cho thương lái Việt Nam tại cửa khẩu Lao Bảo. Sau đó, những con dê nàyđược bán cho các đại lý thu mua để vỗ béo hoặc bán trực tiếp cho lò mổ. Thịt dê từ các lò mổ và đại lý thu mua được bán cho các nhà hàng đặc sản thịt dê và hầu hết đến người tiêu dùng qua những nhà hàng này.

     

      “Theo số liệu thu thập, chúng tôi ước đoán số lượng dê nhập khẩu hiện nay từ Lào thông qua cửa khẩu Lao Bảo mỗi tháng vào Huế khoảng 2.400 con; Quảng Trị khoảng 600 con, Quảng Bình và một số’ tỉnh phía bắc khoảng 1.000 con. Kết quả này nằm trong con số’ ước tính hàng năm xấp xỉ 40.000 con dê sống được nhập khẩu qua cửa khẩu Lao Bảo. Phần lớn những giao dịch này không chính thức, không được thống kê và không thông qua cửa khẩu thương mại”, TS. Nguyễn Hữu Văn chia sẻ.

     

     Dê núi Lào được hưởng lợi thế về giá đáng kể về giá bán tại Việt Nam, dê Lào và dê núi (không phải dê lai) đều được hưởng lợi thế này. Dê đực Lào được giao dịch với giá 135.000 – 150.000 đồng Việt Nam /kg hơi giữa các thương lái và lò mổ. Trong khi đó, dê lai (Bách thảo, Boer) chỉ được giao dịch ở mức 110.000 – 120.000 đồng/kg hơi tại Huế và Lao Bảo.


     Theo thông tin thu thập được, một số món ăn truyền thống chỉ có thể được chế biến từ thịt dê núi. Thịt dê lai có chất lượng không phù hợp để chế biến các món ăn này. Khách hàng Việt Nam trong khu vực thường tìm kiếm các món ăn từ thịt dê núi Lào khi thưởng thức tại các nhà hàng đặc sản thịt dê.

     

     Việc giao dịch không chính thức trong nhập khẩu dê Lào có thể gây ra một số trở ngại trong việc quản lý thương mai, thông tin và vệ sinh an toàn thực phẩm. Các nghiên cứu sâu hơn nhằm tìm hiểu nhu cầu đang tăng của người tiêu dùng Việt Nam về dê nói chung và dê Lào nói riêng, cũng như việc xác định qui mô thị trường dê nuôi nuôi thả tự nhiên là rất cần thiết. Điều này sẽ thúc đẩy cho việc chăn nuôi dê ở Lào, cũng như giải quyết bài toán nhu cầu dê Lào của người tiêu dùng Việt Nam.

     

     “Chúng tôi thấy rằng dê ở Lào được nuôi để lấy thịt, phần lớn được tiêu thụ tại địa phương hoặc bán con sống cho các thương lái đưa đến các thành phố hoặc sang Việt Nam. Dê chủ yếu được nuôi tại các hộ nông dân quy mô nhỏ khoảng 10 con. Không có số liệu xuất khẩu dê hoặc các sản phẩm của chúng ở Lào được ghi nhận chính thức. Các thị trường chính thức ở Lào rất kém phát triển, không có nhiều thông tin chi tiết liên quan đến các tác nhân của chuỗi thị trường, chi phí giao dịch và chi tiết của chuỗi sản phẩm thịt dê và các sản phẩm khác từ dê. Số lượng nghiên cứu về tiêu thụ dê, thị trường và chuỗi giá trị dê ở Lào còn hạn chế. Nhu cầu thị trường nước ngoài, chủ yếu từ Việt Nam, có vẻ như là động lực chính của chuỗi xuất khẩu dê”, TS. Nguyễn Hữu Văn cho hay.

     

     Các hợp đồng kinh tế giữa các tác nhân tham gia chuỗi hầu như chưa có. Các bằng chứng về hệ thống truy xuất nguồn gốc vẫn chưa được chú trọng. Không có nhiều thông tin và tài liệu về cả liên kết dọc và ngang trong chuỗi chăn nuôi dê Lào. Thông tin về mối quan hệ giữa các tác nhân như giữa người chăn nuôi với thương lái Lào, thương lái với chủ nhà hàng và cửa hàng, thương lái trong và ngoài nước rất ít. Trong khi đó, nghiên cứu cho thấy, nhu cầu từ các nhà hàng dê ở Việt Nam ngày càng cao đã khẳng định nhu cầu nghiên cứu và phát triển chuỗi thị trường.  

     

     Dự án ACIAR LS/2017/034 đã có nhiều cuộc thảo luận với nông dân, thương lái và cơ sở giết mổ để xác định các đặc điểm của chăn nuôi dê và hệ thống thị trường. Trên cơ sở thảo luận này, nhóm dự án đã đưa ra câu hỏi nghiên cứu mới: Làm thế nào để các hộ chăn nuôi nhỏ và người kinh doanh ở Lào có thể tăng số lượng và chất lượng sản phẩm để tận dụng nhu cầu thịt dê ngày càng tăng ở Lào và Việt Nam?

     

     Trong thời gian tới, nhóm cán bỗ của dự án sẽ trực tiếp thực hiện các cuộc khảo sát đối với các thương lái, chủ lò mổ, nhà hàng và người tiêu dùng thịt dê ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Một số thành viên trong nhóm sẽ sang Lào để giúp các đối tác Lào tiến hành khảo sát với người chăn nuôi dê và thương lái Lào. Sau đó, sẽ hỗ trợ triển khai thiết lập một số chuỗi giá trị chăn nuôi dê ở Lào và Việt Nam, nhằm hướng đến hệ thống sản xuất thịt dê phải đảm bảo an toàn dịch bệnh và an toàn thực phẩm. Đồng thời tạo ra thị trường bền vững và cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ thịt dê.

     

                                             Chu Khôi

    Việt Nam có đàn dê và cừu trên 2,8-3,0 triệu con, với tốc độ tăng trưởng số lượng 15,45%. Đàn dê nước ta tập trung chủ yếu ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, tiếp theo là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Hai vùng này chiếm 57,41% về tổng đàn dê và 51,16% về sản lượng thịt dê; ĐBSCL. Chăn nuôi dê chủ yếu ở quy mô nông hộ với giống dê bản địa hoặc dê lai nhưng cũng đã xuất hiện ở một số trang trại nuôi dê thịt lớn từ 1.000 đến 3.000 dê thịt, chủ yếu là giống ngoại ở Lâm Đồng, Ninh Bình và Long An.

    3 Comments

    1. Võ Kim Phước Lợi

      Tôi cũng muốn tiềm hiểu thêm về ngành chăn nuôi dê cũng như dự án
      CIAR LS/2017/034và tôi có thể liên hệ với ai. Hiện tại tôi đang ở Đồng Nai. SĐT 0941166266

    2. NGUYỄN TUẤN

      T muốn tìm hiểu mô hình chăn nuôi và kỹ thuật.

    3. Phan Huệ Tánh

      Tìm hiểu hoạt động trang trại nuôi De vùng đồng bằng sông Cửu long,con giống, chăm sóc và thông tin thị trường tiêu thụ

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.