Xác định khẩu phần tối ưu cho gà đẻ - Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
    • Giá heo (lợn) hơi miền Bắc từ 56.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Hà Nội, Hưng Yên 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi  Vĩnh Phúc 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Trung và Tây Nguyên từ 55.000 - 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Quảng Trị 55.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Lâm Đồng, Bình Thuận 58.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Nghệ An 57.000đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi miền Nam từ 56.000 - 59.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Đồng Nai 58.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Bến Tre 56.000 đ/kg
    • Giá heo (lợn) hơi Kiên Giang 59.000 đ/kg
    •  
  • Xác định khẩu phần tối ưu cho gà đẻ

    Dinh dưỡng thích hợp cho gà đẻ là điều cần thiết để đảm bảo năng suất của chu kỳ nuôi.

     

    Chăm sóc tốt gà mái tơ

     

    Điều quan trọng là làm cho con gà mái tơ khỏe mạnh, có chất lượng tốt với nguồn dự trữ của cơ thể đủ để duy trì nhu cầu sản xuất trứng cao. Trong giai đoạn phát triển, khối lượng cơ thể và sự đồng đều về khối lượng cơ thể là những công cụ tốt nhất để quản lý chương trình dinh dưỡng và đảm bảo sự phát triển của những con gà mái tơ. Do đó, khối lượng cơ thể của những con gà mái tơ nên được theo dõi bằng cách cân khối lượng chúng thường xuyên. Các nhà sản xuất gà mái tơ bắt đầu cân chúng ở 2 tuần tuổi và cân mỗi tuần sau đó. Các biện pháp giúp tăng khối lượng cơ thể là cần thiết để có thể khắc phục những vấn đề về tăng trưởng và giúp xác định khi nào nên thay đổi khẩu phần ăn.

     

    Trong một vài trường hợp, khẩu phần ăn thay đổi đã được cho ăn ở 3 tuần tuổi tuy nhiên khối lượng cơ thể của gà vẫn thấp hơn chỉ tiêu thì khẩu phần ăn này nên được cho ăn thêm 1 hoặc 2 tuần nữa, cho đến khi khối lượng mục tiêu theo độ tuổi được đáp ứng. Ngược lại, khẩu phần ăn có thể được chuyển đổi sớm hơn nếu các con gà mái tơ đạt được khối lượng chỉ tiêu sớm hơn.

     

     

    Trường hợp những con gà mái tơ không đạt được khối lượng cơ thể ở mức mong muốn thì các thành phần trong khẩu phần ăn nên được so sánh với các khuyến cáo dành cho gà giống. Nếu không có sự khác biệt rõ ràng để giải thích tốc độ tăng trưởng giảm (lưu ý không có vấn đề gì trong quản lý hoặc tình trạng sức khỏe), thì tốc độ tăng trưởng của cơ thể có thể tăng lên bằng cách tăng năng lượng của khẩu phần ăn. Vào những giai đoạn thời tiết nóng, khi lượng tiêu thụ thức ăn thấp thì các thành phần dinh dưỡng (axit amin, axit béo, khoáng chất và vitamin) có thể cần phải được tăng lên để tăng tốc độ tăng trưởng.

     

    Chế độ ăn hợp lý cho gà đẻ

     

    Khẩu phần đầu tiên được cho ăn khi gà mái bắt đầu đẻ trứng là rất quan trọng để duy trì khối lượng cơ thể, đáp ứng nhu cầu sản xuất trứng và cũng để đảm bảo gà mái có sức sản xuất lâu hơn. Do đó, khẩu phần đầu tiên cho gà đẻ nên có dinh dưỡng đậm đặc hơn, thường yêu cầu mức bổ sung tương đối cao của dầu, axit amin tiêu hóa, canxi và phốt pho khả dụng.

     

    Khẩu phần đầu tiên được cho ăn từ khi bắt đầu đẻ nhưng giai đoạn cho ăn thì tương đối ngắn (từ khi đẻ đến khi mức tiêu thụ thức ăn quan sát đã tăng thêm 5 – 10 g/ngày), thường xảy ra vào khoảng 26 – 27 tuần tuổi. Khi đó, khẩu phần 1 có thể được điều chỉnh lại để tận dụng những ưu thế của việc tăng lượng ăn vào. Khẩu phần thứ 2 nên được xây dựng với cách thức tương tự hoặc ít hơn một chút (0,1 MJ/kg hoặc 25 kcal/kg) so với khẩu phần ăn 1. Điều đó có nghĩa là khẩu phần ăn thứ 2 ít dưỡng chất hơn và do đó, ít tốn kém hơn. Nếu muốn có một chương trình kiểm soát khối lượng trứng chủ động thì có thể bắt đầu ở độ tuổi này bằng cách giảm lượng tiêu thụ axit amin và bổ sung chất béo cho gà mái.

     

    Khẩu phần ăn tiếp theo được xây dựng sau khi lượng ăn vào tăng thêm 5 g/ngày, thường xảy ra vào khoảng 36 – 37 tuần tuổi và do đó khẩu phần ít dinh dưỡng hơn khẩu phần ăn 2. Lượng ăn vào thường không thay đổi nhiều sau thời gian này.

    Khẩu phần 4 nhằm mục đích kiểm soát khối lượng trứng (bằng cách giảm hàm lượng axit amin và chất béo), duy trì chất lượng vỏ trứng (bằng cách tăng canxi và giảm phốt pho).

     

    Lưu ý, để tránh những thay đổi quá đột ngột khi thay đổi khẩu phần có thể gây ra như sự giảm tiêu thụ thức ăn tạm thời, nên thay đổi hàm lượng năng lượng giữa các khẩu phần ăn khác nhau trong các giai đoạn không quá 0,10 MJ/kg hoặc 25 kcal/kg mỗi tuần. Tương tự, hàm lượng chất dinh dưỡng không nên thay đổi nhiều hơn khoảng 5% mỗi tuần (Ví dụ: từ 0,90 – 0,86% lysine), có nghĩa là cần thay đổi nhiều khẩu phần ăn trong vài tuần nếu muốn giảm năng lượng hoặc chất dinh dưỡng nhiều hơn.

     

    Nguồn: Tạp chí Người chăn nuôi

    Để lại comment của bạn

    Bình luận mới nhất

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Trong bối cảnh bệnh Dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, thành phố càng nỗ lực thực hiện các biện pháp kiểm soát chăn nuôi, giết mổ và tiêu thụ gắt gao. Hơn nữa, khảo sát một đêm tại thị trường […]

    • [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Anh Trần Văn Toản, ở khu vực Bình Yên B, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ là người đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long mở trang trại nuôi chim công rất thành công mà cho thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm.   1/ […]

    • Giống chim này có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu ở nước ta, tỷ lệ nuôi sống đạt 94-99%.

    • Để đàn gà sinh trưởng phát triển tốt có tỷ lệ sống cao cần thực hiện tốt kỹ thuật úm gà con

    • Việt Nam cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… là những nước đã nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo.

    • Gà vảy cá được mệnh danh là “mỹ kê” đã được nhiều đại gia Việt sẵn sàng chi tiền triệu để hữu cặp gà vảy cá đẹp.

    • Cừu chính là loài vật nuôi thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Ninh Thuận.

    • Nghề nuôi chim cút đẻ hiện đang phổ biến ở rất nhiều hộ gia đình tại các địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế khá.

    • Tỉnh Phú Thọ với địa hình đa dạng: nhiều gò, đồi thấp, dải đồng bằng thuận lợi cho chăn nuôi, trong đó, có chăn nuôi gà lông màu.